Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích giá trị nội dung nghệ thuật độc tiểu thanh ký của nguyễn du

Phân tích giá trị nội dung nghệ thuật độc tiểu thanh ký của nguyễn du
2 trả lời
Hỏi chi tiết
182
9
5
Bùi Tuấn Tài
22/02 08:07:44
+5đ tặng

Sê-khốp đã từng nói “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” câu nói ấy làm ta bỗng nhớ đến một nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một bậc thầy về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng nhân đạo tiến bộ nhất trong xã hội phong kiến xưa,… con người vĩ đại ấy không ai khác ngoài đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Thơ của ông không chỉ hay mà còn sâu sắc đi vào trái tim người đọc để rồi những áng văn kì bút ấy sống mãi với thời gian mà chẳng bao giờ mất đi cái giá trị cao cả vốn có của nó vì vậy chẳng lẽ tự nhiên nhà thơ Tố Hữu sau này có viết:

“Tiếng thơ ai động đất trời 
Nghe như non nước vọng lời ngàn tu 
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du 
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.

Và giờ đây ta hãy cùng khám phá tài hoa của ông qua thi phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” mà trong đó chính là cái nhìn đồng cảm đến tinh tế về những con người tài hoa bạc mệnh, bị rẻ rúng trong xã hội phong kiến đang dần suy thoái cùng với đó là bức thông điệp gửi gắm đến muôn đời sau để rồi cho ta thấy cái nhân đạo thấm nhuần trong ông đẹp đẽ đến nhường nào!

Bài thơ được sáng tác vào một lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc được lấy cảm hứng từ câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh sống vào thời Minh (từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVII). Nàng vốn là người tài sắc vẹn toàn nhưng rồi cái quy luật phũ phàng của trời đất đâu có tha riêng cho một ai: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”! Vẫn ở cái tuổi “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng nàng đã phải làm vợ lẽ khi mới là một thiếu nữ và cuộc đời nàng cũng chìm trong bóng tối từ đây… Bị vợ cả ghen ghét, đày đọa sống một mình tại đỉnh núi Côn Sơn không ai quan tâm kể cả bố mẹ hay từ người phu quân của nàng để rồi sự cô đơn, uất ức đã làm nàng chết dần, chết mòn theo thời gian và cũng để rồi người con gái ấy sống mãi ở tuổi xuân xanh… Sau khi mất đi, những bức hoạ và những bài thơ chứa đựng tâm tư của nàng cũng bị người vợ cả đốt sạch chỉ còn vương vấn, sót lại chút ít mà thôi. Và có lẽ nhan đề bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” cũng bắt đầu từ đây, phải chăng sau khi đọc tập thơ ấy đã khiến Nguyễn Du rung động rồi tạo thành nguồn cảm hứng tuôn trào trong ông?

Nguyễn Du từng viết trong “Truyện Kiều” rằng:

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Và đó cũng chính là tâm trạng của ông khi bước tới ngọn núi Côn Sơn đã lụi tàn qua năm tháng:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khuê 
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

(Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang 
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Đó không chỉ là sự thay đổi nghiệt ngã của cảnh vật mà còn là của con người, từ một vườn hoa đẹp, lộng lẫy, sức sống căng tràn bao nhiêu thì nay lại trở nên tàn tạ, hoang phế, đìu hìu bấy nhiêu. Con người cũng vậy, thời gian cũng đã cướp đi biết bao nhiêu thứ từ con người, phải chăng đó là sự mỏng manh, ngắn ngủi của cái đẹp, là sự xuất chúng, hơn người của tài năng cũng tàn phai theo? Tiểu Thanh chẳng hề ngoại lệ, vâng, nàng có tài, có sắc ai mà chẳng biết, ai mà chẳng hay nhưng rồi: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” khiến cho bông hoa như nàng cũng phải lụi tàn trước ngọn lửa ghen tuông bùng cháy dữ dội như muốn thiêu đốt trọn cái tài, cái sắc của nàng. Làm vợ lẽ đã đành nhưng nàng chẳng có được sự tự do kể cả trong tình cảm của mình. Mọi thứ từ, mọi việc làm, mọi cuộc gặp gỡ đều phải được người vợ cả đồng ý thì thư mới được gửi đi, việc mới được làm, chồng mới được gặp,… Dường như nàng có phu quân cũng như không vậy, ước chăng cũng một lần được nói ra tâm tư, cũng một lần được nhung nhớ như người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy 
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu 
Ngàn dâu xanh ngắt một màu 
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.

Nguyễn du gợi nên nỗi xót xa, thương cảm cho cái đẹp bị trò đời trêu đùa đến nhẫn tâm, đến khi bị tàn lụi, bị huỷ hoại thậm tệ là lìa xa trần thế mới thôi…

“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

Khi tới nơi đây, héo tàn, trơ trụi đã đành nay còn thêm cả ảm đạm, đìu hiu không một bóng người dù vậy Nguyễn Du vẫn trang trọng kính viếng bởi chăng trong họ là một sợi dây đồng cảm đang kết nối với nhau, đó là tiếng nói đồng điệu của những con người đa tài nhưng số phận chẳng được trọn vẹn như cái tài ấy. “Độc điếu”- tâm thế cô đơn không chỉ riêng Tiểu Thanh mà còn là của Nguyễn Du. Nàng thì cô đơn giữa chốn không người, cảnh vất thê lương hoang tàn còn ông thì cô đơn giữa dòng đời bởi chẳng ai hiểu được ông, hiểu được cái nhân đạo cao quý, cái tư tưởng sâu sắc mà con người cao cả hướng tới bấy lâu nay. Đọc di cảo của nàng lại càng khiến ông không khỏi xót xa bởi cái phũ phàng của cuộc đời đặt ra để thử thách đời người và có lẽ, chính ông cũng đã sớm chiêm nghiệm điều ấy:

“Trải qua một cuộc bể dâu 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Thấm thoát cũng đã hơn ba trăm năm, những gì về người con gái ấy chỉ còn là một tập thơ với những trang giâý tàn mà Nguyễn Du đọc bên cửa sổ, dù có ít ỏi đi chăng nữa cũng đủ cho hậu thế xót xa mà nhỏ lệ, nhỏ lệ trước cách mà trò đời đối xử với nàng, cách mà nó làm nàng nhỏ bé, tàn tạ rồi ra đi mãi mãi đến đau lòng…

Cuộc đời nàng, số phận nàng luôn làm người đời suy tư, thổn thức ngay cả Nguyễn Du cũng vậy:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu 
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.

(Son phấn có thần chôn vẫn hận 
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Son phấn làm gì có thần? Nhưng với Nguyễn Du thì có đấy. Văn chương thì làm gì có mệnh (vô mệnh) nhưng trong thơ của Nguyễn Du hoàn toàn ngược lại. Dường như ông đã khéo léo sử dụng hình ảnh “chi phấn” để ẩn dụ cho nhan sắc của Tiểu Thanh, nhan sắc ấy không chỉ đẹp mà còn bất tử và trường tồn mãi mãi. Vẻ đẹp ấy có sức sống kì diệu ngay cả khi bị chôn vùi dưới đất xấu thì nó vẫn làm người đời nhớ đến mà tiếc thương và đây cũng là lần đầu tiên trong nền văn học trung đại Việt Nam, dưới sự kìm hãm của xã hội phong kiến có một nhà thơ dám miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, ngay cả khi Nguyễn Dữ miêu tả Vũ Nương cũng chỉ khiêm tốn hoạ nên vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Dường như đó là tiếng nói bất bình của Nguyễn Du bởi lẽ vẻ đẹp của người phụ nữ bị xã hội rẻ rúng, coi thường và đây cũng là một bước đi mới trong nền văn học trung đại đương thời. Văn chương vốn “vô mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nay cũng phải “lụy” cái bạc mệnh của con người. Nó cũng biết đau khổ, biết buồn vui, biết vương vấn,… và rồi bỗng chợt nhận ra cái oan trái, ngang ngược mà ông trời sắp đặt cho nó. Có sắc, có tài rồi cũng để làm gì:

“Có tài mà cậy chi tài 
Chữ tài liền với chữ tai một vần”.

Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!

Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm nghe mà nhói lòng người:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn 
Phong lưu kì oan ngã tự cư”.

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi 
Cái án phong lưu khách tự mang)

Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự” , xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,.. khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục để rồi Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:

“Đau đớn thay phận đàn bà 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước cái đẹp, cái thiện đang dần bị thế lực hắc ám chà đạp, những con người như Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh được ông miêu tả bằng tất cả sự căm phẫn. Tú bà thì:

“Thoắt trông nhợt nhạt màu da 
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao”.

Mã Giám Sinh thì:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần 
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.

Sở Khanh lại là kẻ:

“Một chàng vừa trạc thanh xuân 
Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”.

Tại sao những kẻ như vậy lãi vẫn sống yên bình, ăn chơi trác táng mà khi ấy những người như Tiểu Thanh hay Thuý Kiều, Đạm tiên lại phải chịu biết bao sóng gió cuộc đời để rồi người thì ra đi mãi mãi, người thì chẳng bao giờ có được tình yêu của chính mình,… Bản thân Nguyễn Du tự cho mình là người có tài và cùng hội với những con người tài hoa bạc mệnh. Cái tài của ông dùng để cảm nhận cái đẹp, để thương con người, để thể hiện vẻ đẹp sâu sắc của tâm hồn chứa đựng cảm hứng nhân đạo khác hoàn toàn với Nguyễn Công Trứ mang nét cao ngạo, thể hiện cái tôi một cách ngông cuồng. Cái phong lưu của con người đã trở thành một cái oán, cái án ấy khiến người ta bị đày đọa, bị hắt hủi, bị hành hạ cho đến sức cùng lực kiệt thì mới thôi. Phải chăng khi đặt mình cùng vào chiếc thuyền khiến cho tiếng nói tri âm, tri kỉ lại càng vắng thêm sâu sắc thêm nhường nào…

Đau đớn trước cái ngang trái của cuộc đời và giờ đây Nguyễn Du lại tự thương cho chính bản thân mình và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại- cảm hứng tự thương:

“Bất tri tam bách dư niên hậu 
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

(Chẳng biết ba trăm năm nữa 
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Hai câu kết mở ra là cả một thế giới nội tâm của Nguyễn Du, “tam bách dư liên hậu”-con số 300 năm chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông trong thời đại. Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm. Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ đưa tên chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn khẳng định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là sự tự thương. Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng 2 câu thơ thất niêm phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa.

Bài thơ đã ra đời cách đây mấy trăm năm nhưng giá trị nhân đạo mà nó để lại vẫn là mãi mãi. “Độc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài, có sắc nhưng bị xã hội phong kiến mục nát chà đạp. Khóc cho họ và rồi Nguyễn Du cũng khóc cho chính mình, cho một tài năng mà xã hội mục nát ấy chẳng thể nhận ra vì vậy Nguyễn Du cùng với “Độc Tiểu Thanh kí” luôn sống mãi trong lòng hậu thế với những giá trị nhân đạo cao quý, đúng như Lâm Ngũ Đường từng nói: “văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ”.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
tên annnnnnnnnnnn
11/10 19:32:50

Nguyễn Du – một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam, khi nhắc đến ông, người ta thường nghĩ ngay đến tác phẩm Truyện Kiều vang danh, nhưng ít ai biết được, ông còn có một tác phẩm nổi tiếng khác là “Đọc Tiểu Thanh kí” - một tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc như Truyện Kiều.

Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nhà thơ đã nêu cụ thể nỗi đau của nàng Tiểu Thanh bằng cách nhân hóa những vật dụng và dư cảo của nàng. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du được bộc lộ rõ qua những câu thơ có hồn này, làm cho câu thơ có sức nặng.Đến như những vật vô tri như son phấn, văn chương bị chôn vẫn còn hận, bị đốt vẫn còn vương, . Nàng Tiểu Thanh bị đau đớn, bị dằn vặt, bị phũ phàng như thế sao không hận, cái hận về thể xác, bị vùi dập, cái hận vì tài năng bị chôn vùi. Làm sao Tiểu Thanh không hận được, một khi “văn chương” là máu, là nước mắt nàng. Đó cũng chính Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.

Là tiếp tục cái niềm thương cảm, chỉ có điều là niềm thương cảm ấy, cái hận ấy là muôn đời, không sao giải thoát được. Người đã chết đem theo mối hận vào lòng đất để rồi vĩnh viễn bị chôn chặt, người còn sống (chính nhà thơ) phải tự mang.Nguyễn Du đã hòa cái cảm xúc, cái nghịch cảnh đó vào cùng với Tiểu Thanh, người đã chết ba trăm năm trước. Thử hỏi: người đang sống, kẻ phong lưu tài hoa như nhà thơ thì có tội gì, vì sao phải hóa thân vào người đã chết để nói lên tâm trạng của mình. Phải chăng là xã hội bất công đã đố kị với tài năng của ông, đã bóp chết tâm hồn ông.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Nguyễn Du đã đặt câu hỏi ra với đời, với muôn đời: liệu ba trăm năm lẻ, có thể là hơn ba trăm năm sau, có ai khóc Tố Như (hiệu của Nguyễn Du) chăng? Nàng Tiểu Thanh sau ba trăm năm thì đã có ít ra một người là nhà thơ khóc thương nàng. Câu hỏi đặt ra cho đời cũng là cho mình mà không lời đáp, bị rơi vào hư không. Nói với quá khứ, nói với tương lai như thế, thổn thức về một người phụ nữ cách ngàn dặm, chết đã ba trăm năm, ta như thấy Nguyễn Du thổn thức trăn trở biết bao!       

Bài thơ "Đọc Tiểu Thanh kí" của Nguyễn Du là một kiệt tác để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm thương cảm về số phận bất hạnh của nhiều người trong xã hội, lên án xã hội chà đạp lên nhân phẩm của họ.

 

 

 

 

 

 

Nguyễn Du – một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam, khi nhắc đến ông, người ta thường nghĩ ngay đến tác phẩm Truyện Kiều vang danh, nhưng ít ai biết được, ông còn có một tác phẩm nổi tiếng khác là “Đọc Tiểu Thanh kí” - một tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc như Truyện Kiều.

Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nhà thơ đã nêu cụ thể nỗi đau của nàng Tiểu Thanh bằng cách nhân hóa những vật dụng và dư cảo của nàng. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du được bộc lộ rõ qua những câu thơ có hồn này, làm cho câu thơ có sức nặng.Đến như những vật vô tri như son phấn, văn chương bị chôn vẫn còn hận, bị đốt vẫn còn vương, . Nàng Tiểu Thanh bị đau đớn, bị dằn vặt, bị phũ phàng như thế sao không hận, cái hận về thể xác, bị vùi dập, cái hận vì tài năng bị chôn vùi. Làm sao Tiểu Thanh không hận được, một khi “văn chương” là máu, là nước mắt nàng. Đó cũng chính Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.

Là tiếp tục cái niềm thương cảm, chỉ có điều là niềm thương cảm ấy, cái hận ấy là muôn đời, không sao giải thoát được. Người đã chết đem theo mối hận vào lòng đất để rồi vĩnh viễn bị chôn chặt, người còn sống (chính nhà thơ) phải tự mang.Nguyễn Du đã hòa cái cảm xúc, cái nghịch cảnh đó vào cùng với Tiểu Thanh, người đã chết ba trăm năm trước. Thử hỏi: người đang sống, kẻ phong lưu tài hoa như nhà thơ thì có tội gì, vì sao phải hóa thân vào người đã chết để nói lên tâm trạng của mình. Phải chăng là xã hội bất công đã đố kị với tài năng của ông, đã bóp chết tâm hồn ông.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Nguyễn Du đã đặt câu hỏi ra với đời, với muôn đời: liệu ba trăm năm lẻ, có thể là hơn ba trăm năm sau, có ai khóc Tố Như (hiệu của Nguyễn Du) chăng? Nàng Tiểu Thanh sau ba trăm năm thì đã có ít ra một người là nhà thơ khóc thương nàng. Câu hỏi đặt ra cho đời cũng là cho mình mà không lời đáp, bị rơi vào hư không. Nói với quá khứ, nói với tương lai như thế, thổn thức về một người phụ nữ cách ngàn dặm, chết đã ba trăm năm, ta như thấy Nguyễn Du thổn thức trăn trở biết bao!       

Bài thơ "Đọc Tiểu Thanh kí" của Nguyễn Du là một kiệt tác để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm thương cảm về số phận bất hạnh của nhiều người trong xã hội, lên án xã hội chà đạp lên nhân phẩm của họ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k