Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

So sánh sự khác nhau giữa cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và chống quân Mông Nguyên thời Trần theo các nội dung sau: chủ trương, tương quan lực lượng, quy mô tính chất

So sánh sự khác nhau giữa cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và chống quân Mông Nguyên thời Trần theo các nội dung sau: chủ trương, tương quan lực lượng, quy mô tính chất.

5 trả lời
Hỏi chi tiết
2.444
0
1
Nguyễn Hoàng Đức
22/08/2020 17:59:24
+5đ tặng

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
Chou
22/08/2020 18:00:27
+4đ tặng
 - Lê Hoàn cũng như Lý Thường Kiệt đều sớm hiểu rõ ý định tác chiến của quân Tống là dùng lực lượng quân sự nhanh chóng đánh chiếm kinh đô Đại Việt (là Hoa Lư thời Tiền Lê và Thăng Long thời Lý), tiêu diệt lực lượng quân đội của ta, từ đó buộc triều Tiền Lê và triều Lý phải đầu hàng.
1. Chiến lược
Các nhà lãnh đạo kháng chiến của Đại Việt lúc đó đã theo dõi sát các hành động của quân địch ngay từ lúc chúng bắt đầu chuẩn bị cho đến khi tiến quân xâm lược nước ta. Trên cơ sở nắm chắc tình hình địch và căn cứ vào tương quan lực lượng địch, ta, mà Tiên Lê cũng như nhà Lý đã nắm được quyền chủ động suốt cả cuộc chiến tranh chống Tống. Lê Hoàn đã phán đoán chính xác hướng tiến công của các đạo quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Lưu Trừng nên đã chủ động bố trí thế trận chặn đánh địch ở Bình Lỗ, ở Bạch Đằng Giang... Lý Thường Kiệt với chiến lược “Tiên phát chế nhân” đã chủ động đánh sang đất Tống, tiêu diệt căn cứ xuất phát tiến công, triệt phá các căn cứ hậu cần, quân sự của chúng; khiến muốn xâm lược nước ta chúng lại phải bắt tay vào chuẩn bị từ đầu. Tiếp sau đó đã phán đoán đúng ý đồ của nhà Tống, khẩn trương chuẩn bị lực lượng, xây dựng phòng tuyến chủ động phòng ngự và phản công tiêu diệt quân giặc khi thời cơ xuất hiện.
Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Tống ta đều khéo léo kết hợp hai cách đánh “công” và “phòng” (tiến công và phòng ngự) trên cả quy mô chiến lược và chiến thuật để đánh bại chiến lược tiên công chớp nhoáng của địch.
Năm 981, Lê Hoàn cùng các tướng lĩnh và quân đội đã tổ chức những trận địa phòng thủ vững chắc mà trọng điểm là trận địa phòng ngự khu vực ở cửa quan Bình Lỗ và trận địa phòng thủ ở cửa sông Bạch Đằng. Dựa vào trận địa đó, Lê Hoàn đã vừa thực hành tác chiến phòng ngự để ngăn chặn tiêu hao giặc, vừa tổ chức mai phục để tiến công tiêu diệt giặc, tạo điều kiện thuận lợi để quân ta thực hiện phân công - tiến công, truy kích tiêu diệt quân Tống.
Trong nhữngnăm 1075 - 1077, Lý Thường Kiệt đã thực hành tập kích chiến lược ở các châu Ung, Khâm, Liêm, phòng ngự chiến lược ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) và khi thời cơ đến đã thực hành phản công chiến lược trên quy mô để tiêu diệt địch.
Cả Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đều khéo vận dụng kết hợp giữa tác chiến trên bộ và trên sông biển, giữa bộ binh và thủy binh, đánh tan kế hoạch hiệp đồng thủy bộ của quân Tống. Trong cả hai lần kháng chiến nói trên, ta đã tạo được một thế trận phòng thủ chiến lược mạnh có thể chặn đánh, phá kế hội sư thủy bộ của địch, đồng thời lại tạo điều kiện để thực hiện tác chiến phôi hợp giữa quân triều đình và thổ binh; vừa có thể đánh địch ở phía trước vừa quấy rối, tiêu hao địch ở sau lưng chúng, vừa đập tan được các đột tiến công quy mô của địch, vừa có thể liên tục thực hành tiến công cục bộ, từng bước đẩy quân thù vào tình thế khó khăn. Kết hợp tác chiến các loại quân và kết hợp đánh nhỏ tiêu hao với đánh lớn, tạo thời tạo thế phản công tiêu diệt giặc là phương pháp tác chiến đúng đắn, có hiệu quả trong cả hai lần kháng chiến chống Tống.
2. Chiến thuật
Trong hai cuộc kháng chiến chống Tống đã xuất hiện nhiều hình thức chiến thuật như đánh chặn, tiến công bao vây các đồn trại, dựa vào chiến tuyến đánh phòng ngự, thực hành phản đột kích, đánh phục kích, tập kích tiêu hao địch, rồi cuối cùng là những trận đánh tập trung, đánh, đánh tiêu diệt và truy kích quân địch. Trong chiến tranh, tổ tiên ta đã vận dụng các hình thức tác chiến phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu trong từng khu vực, từng địa bàn, cả trên bộ và trên thủy.
Trong cuộc tiến công sang đất Tống (1075), Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ. Nhờ đó, quân đội Đại Việt đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: hàng loạt thành trại của giặc đã bị hạ. Trường hợp đối với thành Ung châu - căn cứ lớn nhất và chủ yếu của giặc, có thành vững với lũy cao hào sâu và do 5 vạn quân trấn giữ, Lý Thường Kiệt đã kiên quyết dùng cách đánh “cường công”, tức đánh thành bằng sức mạnh. Các kỹ thuật, chiến thuật công thành thời ấy đều được áp dụng: dùng vân thê vượt tường thành đánh vào, cho quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn (tên lửa) làm kế “hỏa công” đốt phá trại giặc, rồi đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên v.v... Đáng chú ý là Lý Thường Kiệt, trong khi đánh thành còn kết hợp với diệt viện và kết quả của trận tiêu diệt một vạn viện binh địch ở cửa Côn Luân đã tác động mạnh mẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho trận công phá thành Ung. Trận đánh thành Ung là trận công thành bằng sức mạnh đầu tiên trong lịch sử quân sự dân tộc, chứng tỏ ông cha ta đã đạt đến trình độ cao trong chiến thuật công thành ở thời bấy giờ.
1
1
Lương Phú Trọng
22/08/2020 18:01:41
+3đ tặng
 - Lê Hoàn cũng như Lý Thường Kiệt đều sớm hiểu rõ ý định tác chiến của quân Tống là dùng lực lượng quân sự nhanh chóng đánh chiếm kinh đô Đại Việt (là Hoa Lư thời Tiền Lê và Thăng Long thời Lý), tiêu diệt lực lượng quân đội của ta, từ đó buộc triều Tiền Lê và triều Lý phải đầu hàng.
1. Chiến lược
Các nhà lãnh đạo kháng chiến của Đại Việt lúc đó đã theo dõi sát các hành động của quân địch ngay từ lúc chúng bắt đầu chuẩn bị cho đến khi tiến quân xâm lược nước ta. Trên cơ sở nắm chắc tình hình địch và căn cứ vào tương quan lực lượng địch, ta, mà Tiên Lê cũng như nhà Lý đã nắm được quyền chủ động suốt cả cuộc chiến tranh chống Tống. Lê Hoàn đã phán đoán chính xác hướng tiến công của các đạo quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Lưu Trừng nên đã chủ động bố trí thế trận chặn đánh địch ở Bình Lỗ, ở Bạch Đằng Giang... Lý Thường Kiệt với chiến lược “Tiên phát chế nhân” đã chủ động đánh sang đất Tống, tiêu diệt căn cứ xuất phát tiến công, triệt phá các căn cứ hậu cần, quân sự của chúng; khiến muốn xâm lược nước ta chúng lại phải bắt tay vào chuẩn bị từ đầu. Tiếp sau đó đã phán đoán đúng ý đồ của nhà Tống, khẩn trương chuẩn bị lực lượng, xây dựng phòng tuyến chủ động phòng ngự và phản công tiêu diệt quân giặc khi thời cơ xuất hiện.
Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Tống ta đều khéo léo kết hợp hai cách đánh “công” và “phòng” (tiến công và phòng ngự) trên cả quy mô chiến lược và chiến thuật để đánh bại chiến lược tiên công chớp nhoáng của địch.
Năm 981, Lê Hoàn cùng các tướng lĩnh và quân đội đã tổ chức những trận địa phòng thủ vững chắc mà trọng điểm là trận địa phòng ngự khu vực ở cửa quan Bình Lỗ và trận địa phòng thủ ở cửa sông Bạch Đằng. Dựa vào trận địa đó, Lê Hoàn đã vừa thực hành tác chiến phòng ngự để ngăn chặn tiêu hao giặc, vừa tổ chức mai phục để tiến công tiêu diệt giặc, tạo điều kiện thuận lợi để quân ta thực hiện phân công - tiến công, truy kích tiêu diệt quân Tống.
Trong nhữngnăm 1075 - 1077, Lý Thường Kiệt đã thực hành tập kích chiến lược ở các châu Ung, Khâm, Liêm, phòng ngự chiến lược ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) và khi thời cơ đến đã thực hành phản công chiến lược trên quy mô để tiêu diệt địch.
Cả Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đều khéo vận dụng kết hợp giữa tác chiến trên bộ và trên sông biển, giữa bộ binh và thủy binh, đánh tan kế hoạch hiệp đồng thủy bộ của quân Tống. Trong cả hai lần kháng chiến nói trên, ta đã tạo được một thế trận phòng thủ chiến lược mạnh có thể chặn đánh, phá kế hội sư thủy bộ của địch, đồng thời lại tạo điều kiện để thực hiện tác chiến phôi hợp giữa quân triều đình và thổ binh; vừa có thể đánh địch ở phía trước vừa quấy rối, tiêu hao địch ở sau lưng chúng, vừa đập tan được các đột tiến công quy mô của địch, vừa có thể liên tục thực hành tiến công cục bộ, từng bước đẩy quân thù vào tình thế khó khăn. Kết hợp tác chiến các loại quân và kết hợp đánh nhỏ tiêu hao với đánh lớn, tạo thời tạo thế phản công tiêu diệt giặc là phương pháp tác chiến đúng đắn, có hiệu quả trong cả hai lần kháng chiến chống Tống.
2. Chiến thuật
Trong hai cuộc kháng chiến chống Tống đã xuất hiện nhiều hình thức chiến thuật như đánh chặn, tiến công bao vây các đồn trại, dựa vào chiến tuyến đánh phòng ngự, thực hành phản đột kích, đánh phục kích, tập kích tiêu hao địch, rồi cuối cùng là những trận đánh tập trung, đánh, đánh tiêu diệt và truy kích quân địch. Trong chiến tranh, tổ tiên ta đã vận dụng các hình thức tác chiến phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu trong từng khu vực, từng địa bàn, cả trên bộ và trên thủy.
Trong cuộc tiến công sang đất Tống (1075), Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ. Nhờ đó, quân đội Đại Việt đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: hàng loạt thành trại của giặc đã bị hạ. Trường hợp đối với thành Ung châu - căn cứ lớn nhất và chủ yếu của giặc, có thành vững với lũy cao hào sâu và do 5 vạn quân trấn giữ, Lý Thường Kiệt đã kiên quyết dùng cách đánh “cường công”, tức đánh thành bằng sức mạnh. Các kỹ thuật, chiến thuật công thành thời ấy đều được áp dụng: dùng vân thê vượt tường thành đánh vào, cho quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn (tên lửa) làm kế “hỏa công” đốt phá trại giặc, rồi đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên v.v... Đáng chú ý là Lý Thường Kiệt, trong khi đánh thành còn kết hợp với diệt viện và kết quả của trận tiêu diệt một vạn viện binh địch ở cửa Côn Luân đã tác động mạnh mẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho trận công phá thành Ung. Trận đánh thành Ung là trận công thành bằng sức mạnh đầu tiên trong lịch sử quân sự dân tộc, chứng tỏ ông cha ta đã đạt đến trình độ cao trong chiến thuật công thành ở thời bấy giờ.
1
1
Chou
22/08/2020 18:02:17
+2đ tặng
Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt hay Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ và nhà Nguyên. Tuy thời gian của cuộc kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288 nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần 9 tháng, chia làm 3 đợt. Trước, giữa và sau các đợt chiến sự là thời gian tiến hành tích cực các hoạt động ngoại giao. Kết quả là Đại Việt bảo vệ được nền độc lập của mình nhưng trên danh nghĩa phải chịu làm một nước triều cống của nhà Nguyên để tránh xung đột trong tương lai. Ba cuộc kháng chiến này được xem là một trong những trang sử hào hùng nhất của người Việt Nam, và cũng là chiến công tiêu biểu của triều đại nhà Trần.

Hoàn cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1225, dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, nữ hoàng nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là vua Trần Thái Tông. Nhà Trần chính thức thay nhà Lý. Sau khi chính thức nắm quyền cai trị Nhà Trần ra sức củng cố nội chính và chấm dứt nạn cát cứ từ cuối thời Lý. Tới năm 1229, sau khi Nguyễn Nộn ốm chết, các lực lượng chống đối cơ bản bị dẹp.

Trong khi đó ở phương Bắc, Trung Quốc từ lâu đã bị chia cắt. Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống.

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm Vương quốc Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối mà lại còn cho bắt giam các nhà ngoại giao Mông Cổ.

Chiến tranh nổ ra vào đầu năm 1258 khi Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) cùng con trai là Aju đem 3 vạn quân người Mông Cổ và 1,5 vạn quân người Đại Lý tấn công Việt Nam. Quân Mông Cổ đã mau chóng giành được thắng lợi, chiếm được kinh đô Thăng Long, nhưng rồi cũng mau chóng bị quân Đại Việt đánh bật. Cuộc chiến năm 1258 chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, đến cuối tháng 1 năm 1258 thì quân Mông Cổ thất bại và rút hết khỏi Đại Việt.

Hai mươi năm sau, không cần đi đường qua Đại Việt, Mông Cổ vẫn đánh bại được nước Tống. Nhà Nguyên được thành lập trên lãnh thổ Mông Cổ và Trung Quốc ngày nay. Đế quốc này tìm cách mở rộng lãnh thổ của mình ra phía đông tới Nhật Bản, và xuống phía nam. Để thực hiện ý đồ tiến xuống phía nam, Nhà Nguyên đã tiến hành chiến tranh với Chiêm Thành và Miến Điện trước. Nhưng quân và dân Chiêm Thành đã kháng chiến thắng lợi, khiến cho quân Nguyên không thực hiện được ý đồ lấy Chiêm Thành làm bàn đạp. Ở Miến Điện năm 1277, quân Mông Cổ cũng chịu những thiệt hại quân sự và phải rút lui. Đại Việt trở thành nơi phải bị khuất phục để quân Mông Cổ có thể tiếp tục chiến lược hướng nam. Dưới chiêu bài đề nghị Nhà Trần mở đường cho đại quân Nguyên đi qua chinh phạt Chiêm Thành, quân Nguyên tìm cách tấn công Đại Việt.


 
1
1
Chou
22/08/2020 18:02:39
+1đ tặng

Nguyên nhân thắng lợi của nhà Trần[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc Nhà Trần có những người phản bội, theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.

Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của Nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc Nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc Nhà Trần, ngoài lòng yêu nước và bảo vệ quyền lợi dòng tộc, số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như Nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản,...[9].

Theo một số các nhà nghiên cứu, chiến thắng của nhà Trần có được nhờ vào sự sáng suốt của các tướng lĩnh trong chiến thuật, đứng đầu là Trần Hưng Đạo. Trong khi tác chiến, các tướng lĩnh Nhà Trần chủ động tránh lực lượng hùng hậu người Mông Cổ mà đánh vào các đạo quân người Hán bị ép buộc và uy hiếp phải theo quân Mông sang Đại Việt. Tâm lý của những người mất nước và phải chịu sự quản thúc của người Mông khiến các đạo quân này nhanh chóng tan rã, sức kháng cự thấp. Một cánh quân tan rã có tác động tâm lý lớn tới các đạo quân còn lại trên toàn mặt trận[10].

Sử liệu của nhà Nguyên thường quy kết cho khí hậu nóng ẩm và địa hình nhiều rừng núi khiến quân Nguyên phải thất bại. Trần Xuân Sinh cho rằng: Đúng là có sự ảnh hưởng ít nhiều của khí hậu và địa hình đối với quân Nguyên, nhưng phải thấy rằng những khó khăn này không phải là điều chủ yếu làm cho quân Nguyên thất bại. Bởi thực tế cho thấy quân Mông Cổ vẫn chiến thắng Nam Tống và Miến Điện trong những điều kiện tương tự.

Mông-Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông Cổ bại trận lúc đó đều phần nhiều là bởi lý do khách quan, như Ai Cập thì quá xa xôi và binh lực khá ít, Nhật Bản và Nam Dương đều có biển cả ngăn cách trong khi quân Mông không kinh nghiệm đánh đường thủy, lại xui xẻo gặp bão to (Thần phong ở Nhật Bản) nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Đông Á, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á – Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Tổng cộng 3 đợt xuất quân, Mông-Nguyên huy động khoảng 600.000 tới 1 triệu lượt quân, trong khi dân số Đại Việt khi ấy chỉ khoảng 3 - 4 triệu. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông Nguyên của Nhà Trần.

Theo giáo sư Đào Duy Anh thì có 4 nhược điểm khiến quân Mông Nguyên thất bại ở Đại Việt[11]:

  1. Người Mông Cổ đi đánh xa, lương thực không được vận chuyển đầy đủ mà chỉ mong cướp bóc của dân bản địa để nuôi quân, nếu đối phương áp dụng chiến lược "vườn không nhà trống thì quân Mông Cổ dễ bị khốn đốn vì thiếu lương do không cướp được của dân bản địa (Trong lần đánh Đại Việt thứ 3, quân Nguyên rút kinh nghiệm điều này và đã cho đoàn thuyền chở nhiều lương thực sang hỗ trợ, nhưng đoàn thuyền này lại bị Đại Việt phục kích tiêu diệt nên quân Nguyên lại tiếp tục thất bại).
  2. Quân Mông Nguyên là người phương bắc, không hợp thuỷ thổ.
  3. Quân lính Nguyên phần lớn là người Trung Hoa bị chinh phục, tinh thần chiến đấu không có, gặp khó khăn là chán nản. Quân kỵ binh gốc Mông Cổ thiện chiến thì lại không phát huy được sở trường do chiến lược của Đại Việt là chọn đánh quân Nguyên ở những vùng bến sông hoặc rừng rậm, tránh giao chiến ở vùng bằng phẳng.
  4. Quân đội đông và giỏi nhưng chuẩn bị không tốt về mặt tinh thần cho quân sỹ mà chỉ lo đem quân đội đi đánh vì nghĩ quân đội càng đông càng áp đảo lực lượng Đại Việt. Nhưng rốt cục quân càng đông thì lại càng khó điều phối, càng nhanh hao tổn lương thực.

Chiến công của Nhà Trần nhìn chung được nhiều thế hệ nhân dân ca ngợi qua các thần tích, vè và những lời truyền tụng trong dân gian. Sang thế kỷ 20, Trần Trọng Kim và Phan Kế Bính cũng ca tụng nhiều về chiến thắng đó[12].

Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ ca ngợi chiến công đánh quân Nguyên, nhưng chê trách việc dâng công chúa An Tư cho Thoát Hoan là hạ sách[9].

Trương Phổ – một học giả đời Minh, khi bình luận sách Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm đã viết:

Trấn Nam vương Thoát Hoan tiến binh, vua An Nam là Trần Nhật Huyên (chỉ Thượng hoàng Trần Thánh Tông) đem quân chông lại, quân Thoát Hoan tuy có ngựa mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp, nhưng giữa đưòng quay giáo lui, quân lính tan nát trong chốn của quân kia, Toa Đô, Lý Hằng đồng thời tử chiến... Thoát Hoan xuất quân lần nữa, Nhật Huyên chạy đi để rồi đón lúc về, đánh lúc mệt, quân Nguyên lại thất bại. Đó là vì quân kia tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh cái khí tàn lụi lúc buổi chiều, giấu mình nơi biển khơi, phục quân chốn ải hiểm, quân Nguyên tuy hùng hổ kéo đến, chưa từng thắng được một trận. Có thể nói là Nhật Huyên có tài dùng binh vậy.

Những lãnh đạo kháng chiến thời Trần đã thành công trong việc thực hiện rút lui chiến lược thì cũng đã thành công trong việc phản công chiến lược. Nếu cuộc rút lui chiến lược của quân Trần có ý nghĩa là "tránh cái thế hăng hái lúc ban mai" thì phản công chiến lược chính là "đánh cái khí tàn lụi lúc buổi chiều" của địch như Trương Phổ nói.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng viết: "Các cuộc kháng chiến đời nhà Trần chống quân Nguyên do đã phát động được toàn dân đánh giặc, do đã kết hợp được các hành động chiến đấu của các lực lượng vũ trang chủ lực, địa phương và dân binh, kết hợp đánh du kích với đánh tập trung, nên cả ba lần đều thắng lợi"

Riêng Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của Nhà Nguyễn, vua Tự Đức không khen ngợi mà cho rằng Nhà Trần "gặp may" vì các tướng Nguyên sang Đại Việt đều không giỏi. Tuy nhiên sử sách nhà Nguyên đã ghi rõ ràng những tướng Nguyên như Ngột Lương Hợp Thai, Toa Đô, Ô Mã Nhi hay Lý Hằng đều là những tướng lính dày dạn trận mạc, từng tham gia diệt Nam Tống và Đại Lý đặc biệt là Ngột Lương Hợp Thai, được xếp vào hàng công thần thứ ba của Nhà Nguyên, từng tham gia đánh nước Kim của người Nữ Chân; tấn công Đức và Ba Lan dưới cờ của Bạt Đô, thôn tính đế quốc Ả Rập cùng Húc Liệt Ngột, và diệt nước Đại Lý chỉ trong vài tuần. Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần phản bác quan điểm của Tự Đức và cho rằng những lời bình luận đó là "ngớ ngẩn"[13]:

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Lịch sử Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K