1.2 Về bản chất Nhà nước và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước
Điều 2 của Hiến pháp (sửa đổi) kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; khẳng định nền tảng vững chắc của chính quyền nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, nhấn mạnh cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tại khoản 3 Điều 2. Quy định “kiểm soát quyền lực” là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp. Đây là cơ sở hiến định để tiếp tục thế chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan.
1.3. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4).
Điều 4 của Hiến pháp (sửa đổi) là kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta và đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng, đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta thừa nhận vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng. Hiến pháp đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
1.4. Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9).
Hiến pháp (sửa đổi) đã thể hiện một cách khái quát nhất về vị trí, vai trò quan trọng và chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung và thể hiện rõ hơn vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tố quốc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.5. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Với những nội dung quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Chương II để khẳng định tầm quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp (sửa đổi) đã ghi nhận các quyền cơ bản của con người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa theo các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992; đồng thời, bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.
>> Xem thêm: Lịch sử lập hiến của Pháp và các cuộc cách mạng tiêu biểu ?
1.6. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế (Điều 51)
Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy định như vậy không ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế thị trường và vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế khác.
1.7. Về thu hồi đất (Điều 54)
Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, việc phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội là vẫn cần thiết. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, tùy tiện, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng.
1.8. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 64)
Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hiến pháp (sửa đổi) về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Hiến pháp hiện hành, khẳng định bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và là quyền cao quý của công dân. Tuy nhiên, do nội hàm bảo vệ Tổ quốc rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định khái quát "Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân” tại Điều 64; còn những vấn đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thì được quy định tại các điều 65, 66, 67, 68 và trong các nội dung khác của Hiến pháp (sửa đổi).
1.9. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 70, Điều 74)
- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về ngân sách nhà nước, Quốc hội nhận thấy, việc nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương về ngân sách là cần thiết để địa phương chủ động trong việc triển khai ngân sách nhằm hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mình. Tuy nhiên, việc tách bạch hoàn toàn giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương là không phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta. Nhà nước Việt Nam là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất trong quản lý, Quốc hội đại diện cho cử tri cả nước. Do đó Hiến pháp (sửa đổi) vẫn tiếp tục khẳng định, việc quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước vẫn thuộc trách nhiệm của Quốc hội.
- Do vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài nên việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ là cần thiết. Hiến pháp (sửa đổi) đã kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 về vấn đề này và quy định như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp (sửa đổi) cũng giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Theo Hiến pháp hiện hành thẩm quyền này thuộc Chính phủ.
>> Xem thêm: Lịch sử lập hiến của Pháp đã trải qua 5 chế độ cộng hòa ?
1.10. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 88)
- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Hiến pháp (sửa đổi) đã làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và quy định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp. Đồng thời, đã làm rõ hơn vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước trong việc quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đôc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam...; cùng với đó là bổ sung quy định thẩm quyền của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch quyết định việc lực lượng vũ trang nước ta tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
1.11. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 96, Điều 98)
- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bổ sung chức năng thực hiện quyền hành pháp cho Chính phủ. Theo đó, Chính phủ được quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về các lĩnh vực của đời sống; kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Về thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Hiến pháp (sửa đổi) phân định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
1.12. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quvền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; đồng thời quy định một cách tổng quát về mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, làm cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
1.13. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; có quy định nhằm khắc phục những hạn chế trong việc thành lập, nhập, chia, điều chỉnh đơn vị hành chính.
- Về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp (sửa đổi) quy định khái quát theo hướng: "Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định", việc tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương.
>> Xem thêm: Thuyết nhân trị là gì ? Tìm hiểu về học thuyết nhân trị
1.14. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước (Chương X)
- Nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử...”. Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định tổng quát về Hội đồng bầu cử quốc gia, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.
- Hiến pháp (sửa đổi) cũng quy định một thiết chế hiến định độc lập là Kiểm toán Nhà nước phù hợp với thực tiễn hoạt động của Kiểm toán Nhà nước và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
2 Quyền con người, quyền công dân, quyền hiến định có khác gì nhau ?
Khái niệm
Quyền công dân :Quyền công dân là khả năng tự do lựa chọn hành vì của công dân mà nhà nước phải bảo đảm khi công dân yêu cầu. Quyền của công dân liên quan đến nghĩa vụ tương ứng của Nhà nước là phải bảo đảm các điều kiện cần thiết cho công dân thực hiện các quyền đã được pháp luật quy định.
Quyền con người :Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Quyền hiến định :là các quyền được hiến pháp quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Khái niệm “quyền hiến định” thường được sử dụng khi muốn nhấn mạnh rằng một quyền nào đó được hiến pháp, đạo luật tối cao, bảo vệ
Quyền con người (human rights) thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và quốc tế. Quyền công dân (citizen's rights) là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, được xác định thông qua chế độ quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng chủ yếu dành cho những người có quốc tịch của nước đó.
Quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, bất kể vị thế hoàn cảnh, nơi cư trú... Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền. Ví dụ, một người nước ngoài sẽ không được hưởng một số quyền công dân, chẳng hạn như quyền bầu cử, ứng cử... tuy nhiên, người đó vẫn được hưởng các quyền con người phố biến áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, cụ thế như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân...
>> Xem thêm: Vi hiến là gì ? Khái niệm vi hiến được hiểu như thế nào ?
Quyền hiến định là các quyền được hiến pháp quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Khái niệm "quyền hiến định" thường được sử dựng khi muốn nhấn mạnh rằng một quyền nào đó được hiến pháp, đạo luật tối cao, bảo vệ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các quyền hiến định có giá trị cao hơn và cần phải bảo vệ tốt hơn các quyền không hiến định. Từ quan điểm chung của cộng đồng quốc tế về quyền con người, quyền hiến định đơn giản chỉ là các quyền dễ bị xâm phạm và cần phải được bảo vệ đặc biệt hơn so với các quyền khác. Chính vì vậy, hiến pháp của một số quốc gia (ví dụ như Hoa Kỳ, Liên bang Nga..) có quy định nêu rõ, việc hiến định các quyền không có nghĩa là coi nhẹ các quyền không hiến định.
3 Các quyền trong hiến pháp có mối quan hệ như thế nào với các điều ước quốc tế về quyền con người ?
Việc quy định các quyền trong hiến pháp cần có sự tương thích với quy định của các điều ưóc quốc tế về quyền con người mà quốc gia là thành viên. Hiến pháp một số quốc gia dẫn chiếu, nêu tên hoặc cam kết tôn trọng các quyền trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) và một số công ước quốc tế cơ bản mà quốc gia đã gia nhập (ví dụ như Hiến pháp Nam Phi 1997, Campuchia 1993...).
4. Các quy định về quyền con người, quyền công dân thường được đặt ở vị trí nào trong hiến pháp ?
Hình thức phổ biến nhất của việc quy định các quyền con người, quyền công dân là nằm trong một chương của hiến pháp. Nhiều quốc gia đặt chương thứ hai, sau chương thứ nhất về các nguyên tắc chung, đề cập đến các quyền con người. Trong các hiến pháp của Việt Nam, nội dung về quyển con người cũng nằm trong một chương của hiến pháp. Trong Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, nội dung quyêrí con người đã được đặt tại Chương II.
Tại một vài quốc gia trên thế giói, quyyền con người nằm trong một văn bản độc lập, được coi như cấu phần của hiến pháp. Chẳng hạn như Tuyên ngôn nhân quyền (1689) và Luật về nhân quyền (2008, dẫn chiếu đến các quyền trong Công ước nhân quyền châu Âu) của nước Anh, hoặc Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền (1789) được coi là một câu phần trong Hiến pháp 1958 của Cộng hoà Pháp.
5 .Hiến pháp trên thế giới thường ghi nhận quyền con người quyền công dân nào?
Trên thế giói, các bản hiến pháp cổ điển chủ yếu chỉ đề cập các quyền dân sự (an toàn thân thể, quyền sở hữu, quyền tự do tôn giáo, tự do đi lại, cư trú ...) và các quyền chính trị (tự do ngôn luận, hội họp, quyền bầu cử và ứng cử...). Các bản hiến pháp hiện đại mở rộng phạm vi các quyền con người, bao gồm cả các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và các quyền của nhóm (phụ nữ, trẻ em, người thiêù số, người nước ngoài..).
Mọi thắc mắc xin liên hẹ với công ty Luật Minh Khuê chúng tôi : 1900.6162
>> Xem thêm: Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là gì ? Cách phân loại hiến pháp ? Các chức năng của hiến pháp ?
>> Xem thêm: Chính thể quân chủ lập hiến là gì ? Khái niệm về chính thể quân chủ lập hiến
Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty Luật Minh Khuê
Luật Minh Khuê xin cảm ơn !!
>> Xem thêm: Hình thức và cấu trúc của hiến pháp nước ngoài ?
Các câu hỏi thường gặp
Câu hỏi: Hiến pháp Việt Nam ghi nhận những quyền con người, quyền công dân nào?
Trả lời:
Hiến pháp Việt Nam 1992, tại Điều 50, lần đầu tiên nhắc đến khái niệm "quyền con người". Tuy nhiên, điều khoản này lại đồng nhất quyền con người với quyền công dân. Nhìn chung, quyền công dân trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được Hiến pháp 1992 quy định tương đối đầy đủ. Chẳng hạn các quyền về dân sự như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70), quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 71), quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, thư tín, điện thoại (Điều 72) ..các quyền chính trị như tự do ngôn luận, tự do báo chí (Điều 69)...; các quyền kinh tế như quyền lao động (Điều 55), quyền tự do kinh doanh (Điều 57).. .Mặc dù vậy, vẫn còn một số quyền quan trọng trong luật nhân quyền quốc tế mà đã được ghi nhận phổ biến trong hiến pháp trên thế giới nhưng chưa được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, ví dụ như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, quyền thành lập, gia nhập công đoàn, quyền bãi công.. .Trong số những quyền này, quyền sống đã được bố sung vào Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013.
Câu hỏi: Việc ghi nhận các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam có gì khác với trong hiến pháp của các nước trên thế giới?
Trả lời:
Khái niệm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam 1992 được đồng nhất với quyền công dân (Điều 50). Việc đổng nhất này là không chính xác, vì con người là một khái niệm rộng hơn công dân.
Tại nhiều điều khoản quy định rằng công dân có một quyền nhất định, nhưng phải "theo quy định của pháp luật". Chẳng hạn Điều 57 (quyền tự do kinh doanh), Điều 68 (quyền tự do đi lại và cư trú), Điều 69 (quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập hội)... đều có đuôi là "theo quy định của pháp luật".
Trong Chưong V của Hiến pháp 1992, quy định về "quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân", chủ thể của quyền trong hầu hết điều khoản được xác định là "công dân". Điều này không chính xác vì có nhiều quyền được áp dụng cho cả người nước ngoài có mặt hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, một số hạn chế này đã được khắc phục trong Dự thảo Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
Câu hỏi: Hiến pháp trên thế giói và Hiến pháp Việt Nam có quy định những giới hạn nào về quyền con người, quyền công dân?
Trả lời:
Hiến pháp Việt Nam 1992 chưa quy định về việc giói hạn quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 tại khoản 2 Điều 15 nêu rằng "quyền con người, quyển công dân chỉ có thế bị giới hạn trong trường họp cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo dức, sức khỏe của cộng đồng." Việc quy định về giới hạn quyền là cần thiết, nhưng đặt quy định này như một nguyên tắc tổng quát ở ngay điều khoản đầu tiên của chương về quyền con người lại là không phù hợp với luật nhân quyền quốc tế Đó là bởi việc giới hạn chỉ có thể áp dụng đối với một số quyền nhất định, ngoài ra, có nhiều quyền con người (như quyền sống quyền không bị tra tấn , không bị đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục, quyền tự do tư tưởng...) là các quyền tuyệt đối, nhà nước không được giới hạn trong bất kỳ hoàn cảnh hay vì bất kỳ lý do nào. Hơn thế việc hạn chế nêu áp dụng với các quyền nhất định, không được trái với bản chất của quyền bị giới hạn, phải được luật quy định rõ ràng và phải là cẩn thiết trong một xã hội dân chủ, với mục đích duy nhất là để thúc đẩy lợi ích chung của cộng đồng và các quyền, tự do chính đáng của người khác.
Hiến pháp Việt Nam, kế cả Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 đều không có quy định về những quyền không thể bị hạn chế giới hạn (non-derogable rights) cũng về những điều kiện và phạm vi được hạn chế giới hạn quyền trong bối cảnh khẩn cấp của quốc gia (state of emergency). Đây là những quy định trong hiến pháp của nhiều nước nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng những quy định về giới hạn của quyền để vi phạm nhân quyền. Ngoài ra, cả Hiến pháp hiện hành và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 đều chưa đề cập đến nghĩa vụ của các cơ quan, viên chức nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, cũng như không quy định về các cơ chế mà người dân có thể sử dụng để khiếu nại khi bị vi phạm các quyền