LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

29/08/2021 17:05:33

Phân tích bài ca dao sau

3 trả lời
Hỏi chi tiết
254
1
0
Chan
29/08/2021 17:13:12
+5đ tặng
Từ xa xưa, những bài ca dao Việt Nam với âm hưởng da diết, nhịp nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc đã được người dân sáng tác và lưu truyền cho tới ngày nay. Nội dung của các bài ca dao ấy cũng rất phong phú, có những bài ca dao được sáng tác để phản ánh lịch sử, có những bài được sáng tác nhằm phản ánh đời sống tình cảm nhân dân hoặc phản ánh đời sống xã hội cũ. Trong số các bài ca dao phản ánh đời sống xã hội cũ thì bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” là một ví dụ tiêu biểu, nêu lên thân phận bé nhỏ của người nông dân trong xã hội cũ giống như những con tằm, con kiến.

Bài ca dao còn là tiếng nói của những con người thấp bé trong xã hội phải vất vả làm lụng, bài ca dao cũng là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn ác đã chèn ép người dân đến bước đường cùng.

Bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” được viết theo thể thơ lục bát, âm hưởng của bài ca dao mềm mại, câu từ mộc mạc, giản dị đã làm cho bài ca dao trở nên phổ biến trong dân gian Việt Nam:

“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”.

Hình ảnh “con tằm” và “con kiến” trong 4 câu thơ đầu của bài ca dao chính là những hình ảnh ẩn dụ cho những thân phận “bé nhỏ” trong xã hội cũ, họ là những người có địa vị thấp kém phải lam lũ làm ăn và chịu sự đàn áp của những kẻ có địa vị trong xã hội. Thân phận con tằm đã bé nhỏ, chỉ được ăn lá dâu nhưng lại phải nhả tơ – thứ tơ vàng óng ánh dùng để dệt thành vải, lụa và tạo ra những sản phẩm cao cấp có giá trị. Sau khi nhả tơ xong, con tằm cũng hết giá trị và đồng nghĩa với việc cuộc đời của nó cũng kết thúc. Như vậy hình ảnh con tằm nhả tơ chính là một đại diện cho những người lao động trong xã hội cũ, họ bị bóc lột sức lao động để tạo ra của cải cho địa chủ, khi sức lao động yếu đi họ cũng sẽ bị sa thải hoặc bị đối xử tệ bạc và tàn ác.

Hình ảnh con kiến li ti khiến người ta có cảm giác thật bé nhỏ, những chú kiến ấy mải miết ngược xuôi để tìm mồi. Những chú kiến ấy cũng giống như những người nông dân ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, đi sớm về khuya nhưng cuộc sống vẫn khó khăn vất vả 

“Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời.
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”.

Hình ảnh cánh chim, con hạc, con cuốc nhà những hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao, có lẽ những người nông dân lao động tìm thấy sự đồng điệu giữa hình ảnh gầy guộc, lầm lũi của con vật với chính bản thân mình. Những chú chim mải miết bay đi tìm ăn, bay đến mỏi cánh mà không biết ngày nào sẽ kết thúc cuộc hành trình ấy, cũng giống như cuộc đời phiêu bạt lận đận của những người dân lao động. Những con người bé nhỏ ấy phải cố gắng kiếm sống ngày qua ngày mà không biết khi nào cuộc sống ấy mới chấm dứt, không biết bao giờ mới hết đói hết khổ.

Hình ảnh con cuốc ở hai câu thơ cuối mới đáng thương làm sao, con cuốc bé nhỏ giữa bầu trời rộng lớn dẫu có kêu gào đến mức nào cũng không có ai thấu hiểu, không có ai lắng nghe. Con cuốc ấy cũng là hiện thân của người dân lao động thấp cổ bé họng, dù họ có kêu tới mức nào thì cũng không ai hiểu cho nỗi khổ của họ, không ai có thể cứu vớt họ khỏi cuộc sống tăm tối, khổ cực. Họ hoàn toàn không nhận được sự đồng cảm của mọi người, đặc biệt là giai cấp thống trị xã hội lúc bấy giờ vì vậy tiếng kêu than của họ cũng trở nên vô vọng.

Những người lao động xưa khi nhìn thấy những con vật bé nhỏ tội nghiệp thường có sự đồng cảm bởi chính họ cũng nhỏ bé, tội nghiệp như những con vật ấy. Từ “thương thay” được lặp đi lặp lại trong suốt bài ca dao đã nhấn mạnh sự xót xa vô hạn, nỗi thương cảm vô bờ của người dân lao động đối với những con vật bé nhỏ và cũng chính là niềm thương cảm đối với bản thân họ.

Xã hội phong kiến giống như địa ngục trần gian của những người nhân dân lao động, cuộc sống lầm than khổ cực khiến họ phải cất tiếng than ai oán qua những bài ca dao. Những bài ca dao ấy vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay và đó sẽ là kho tàng văn hóa dân gian vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết quý trọng hiện tại và cống hiến hết mình cho Tổ Quốc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Unnie
29/08/2021 17:15:24
+4đ tặng

Bài ca dao “Thương thay thân phận con tằm gồm có tám câu lục bát. Hai chữ “thương thay” được điệp lại bốn lần và đứng ở vị trí đầu câu “lục” đã làm cho giọng điệu bài ca dao đầy xót thương.

            “Con tằm” và “lũ kiến là hai ẩn dụ nói về những thân phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay", thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến !

“Thương thay thân phận con tằm,
Kiểm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li tỉ,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”

             Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”, kiếp kiến “phải đi tìm mồi”, nhưng “kiếm ăn được mấy”. Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy” cất lên hài lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lần không ra”.

             Hạc, chim, con cuốc, là ba ẩn dụ nói về những thân phận, số phận nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây" để thỏa chí tự do, phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật “thương thay” thật đáng thương !

“Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”

             Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay” ! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “cố người nào nghe”, nào có được cảm thông, được san sẻ. “Con cuốc” trong văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau khổ tuyệt vọng:

“Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”

              Ngoài cách sử dụng điệp ngữ và ẩn dụ, những câu hát than thân này còn được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào thôi”; “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ.

0
0
Nguyễn Hà Thương
29/08/2021 19:32:48
+3đ tặng

Dù đã xuất hiện từ rất lâu nhưng với âm hưởng nhẹ nhàng, câu từ gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc, những bài ca dao dân ca Việt Nam vẫn còn được lưu truyền cho tới ngày nay. "Thương thay thân phận con tằm" là một bài ca dao như thế.

Bài ca dao gồm có tám câu lục bát. Tác giả dân gian đã mượn hình ảnh quen thuộc là "con kiến","con tằm", "con hạc", "con cuốc" để nói về cuộc sống bần hàn, khổ cực của những kiếp người ở dưới đáy của xã hội cũ.

Bài ca dao được bắt đầu bằng lối viết quen thuộc của ca dao than thân - "Thương thay":

"Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ"

Con tằm vốn được sinh ra để làm công việc tạo tơ, cho ra đời những sợi tơ óng ánh và cuộc đời nó sẽ kết thúc khi nó hoàn thành công việc của mình. Cả cuộc đời ngắn ngủi chỉ biết "rút hết ruột mình" để rồi cuối cùng còn lại là cái vỏ nhộng vô hồn, xấu xí. Sinh ra để làm đẹp cho người nhưng lại phải tự kết liễu đời mình cho công việc đó. Nhân dân lao động trong xã hội xưa cũng thế. Họ phải làm lụng vất vả, bị vắt kiệt sức lao động của mình. Họ phải chịu cuộc sống khổ sai, bóc lột để phục vụ cho bọn tham quan, địa chủ chỉ biết hưởng lợi, sống cuộc sống xa xỉ mặc cho họ có "gục chết giữa đường" cũng không mảy may một chút thương tiếc. Rồi cũng giống như tằm, hết lứa tằm này lại có lứa tằm khác, con người cũng thế. Từ đời cha đến con, hết đời này qua đời khác luôn phải chịu cuộc sống bần hàn, bị đày đọa như vậy. Hình ảnh con tằm bị bòn rút tận ruột gan đã khiến người đọc hiểu được bao nỗi vất vả, cay đắng bị dồn nén mà con người sống trong xã hội phong kiến phải chịu đựng. Nhưng bi thương đâu chỉ dừng lại ở đó. Từ thân phận "con tằm", tác giả dân gian lại tiếp tục hé mở thêm về cuộc sống đầy gian khổ của mình:

"Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi"

Nếu đã từng nhìn thấy một đàn kiến đang trên đường kiếm mồi về tổ chắc hẳn bạn sẽ hiểu ra tại sao tác giả dân gian lại sử dụng hình ảnh ẩn dụ này. Con kiếm vốn bé li ti và sức ăn của nó cũng thế nhưng lúc nào nó cũng ở trong trạng thái vội vàng, hấp tấp đi kiếm mồi. Nó kiếm ăn mải miết, kiếm ăn không ngừng nghỉ và thực chất là để nuôi những con kiếm chúa chỉ biết nằm sẵn trong hang và chờ được ăn. Con người cũng vậy. Cả cuộc đời họ làm lụng, kiếm sống, "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" rồi cuối cùng cũng là để phục vụ kẻ khác - những kẻ chỉ biết "ngồi mát ăn bát vàng".

Bốn câu thơ sau của bài ca dao cũng đáng thương chẳng kém với hình ảnh "con hạc", "con cuốc":

"Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe"

Hình ảnh cánh chim hạc gầy gò, cứ mải miết, mải miết bay trên bầu trời cao rộng lớn không biết khi nào sẽ dừng, không có điểm dừng. Chúng bay một cách miệt mài và đầy kiên nhẫn đã gợi ra hình ảnh của những người dân cả đời chỉ biết sống cam chịu, nhẫn nhục. Cả cuộc đời họ vất vả làm lụng, miệt mài cày cuốc nhưng cả cuộc đời chỉ biết sống trong vô vọng với tương lai tăm tối, mù mờ, không biết rõ ngày mai.

Kết thúc bài ca dao là hình ảnh than cuốc gầy guộc cùng tiếng kêu khắc khoải, da diết nhưng nào có ai hay, ai thấu? m thanh hòa vào không gian cũng giống như sự khổ cực của con người bị che lấp bởi sự vô cảm, xấu xa. Trong xã hội cũ, nhân dân lao động chính là những con người thấp cổ bé họng, họ sống ở đáy của xã hội, lời nói của họ không có trọng lượng và chẳng có ai lắng nghe vì thế mà họ cứ phải sống kiếm sống bần hàn hết ngày này qua ngày khác, kiếp này qua kiếp khác.

Bốn hình ảnh khác nhau nhưng đều có một điểm chung là nói về sự khổ cực của con người. Vậy mới thấy nhân dân lao động bần hàn ấy, họ đã phải chịu bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu cay đắng mới có thể thốt ra những lời than ai oán, xót xa đến thế?

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư