Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về
sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
Chúng thủy giai đông tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu.
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, là một “tờ hoa”, “trang hoa" đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một “cố nhân”, một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lũ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa - bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, Mỏ Năng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở phía trên trung lưu sông Đà. đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm...”. Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc” như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách..., như là van xin..; như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo và tâm địa” nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận”, dày đặc “cửa tử”, la liệt ‘‘boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt” có bộ mặt “xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo”, “bắt chết” những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ủi nước”, đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng lờ”; hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kỳ lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá “điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi giăng đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng “thơ ngộ” ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt xô “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm, “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi”, hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”...
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà là loại “tùy bút – bút kí". Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc... chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông”, và “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà Giang bác lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lí Bạch hơn 1.300 năm về trước:
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị.
Dái sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỷ.
Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phú kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu.
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. Người lái đò Sông Đà đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.
Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm. Đọc tùy bút Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người - ông lái đò - ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
đề2
Đất nước là một trong những đề tài gắn với sự thành công của nhiều cây bút trong các thời kì, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh đất nước hóa thân vào “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước bị dày xéo dưới chân của bọn giặc ngoại xâm trong thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một đất nước nhỏ bé, đau thương mà anh hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ của Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta lại có khám phá mới về đất nước của ca dao, thần thoại. Đoạn trích Đất nước nằm trong chương 5 của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm là đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy được tư tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn đất nước mà đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất nước là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có một vị trí đặc biệt, là hình tượng cao quý, đẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust: “Một cuộc thám hiểm không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới”. Bới thế mà với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có một vẻ đẹp, hình dáng khác, đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt nhà thơ. Nếu như các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cảm hứng về đất nước từ lịch sử thông qua các triều đại như:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca
Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ, bình dị, thân quen mà qua đó đất nước hiện lên không kém phần tươi đẹp.
Với cấu trúc tổng-phân-hợp mang đậm phong cách chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, tổ quốc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước mà theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Câu thơ mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức, tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, nó giống như một lời khẳng định về sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi nhắc đến:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Truy tìm về cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về sự khởi thuỷ của hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ, người bà. Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng... Từ những câu chuyện đó hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay. Bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” gợi cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng nói trách nhiệm với quê hương, tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được Tố Hữu đưa vào thơ của mình:
Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.
Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng, bất khuất của con người Việt Nam:
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.
Nguyễn Khoa Điềm đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Có phải chăng hình tượng người mẹ-người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ sự kín đáo, nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét đẹp của người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:
Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh
Vẻ đẹp của con người Việt còn ở phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà thấm đẫm câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ câu ca dao:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến sự ấm áp, hạnh phúc.. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên con là “kèo”, là “cột” ra đời, vừa giản dị lại gần gũi và tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.
Không những vậy, con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã”, “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Câu thơ cuối cùng là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:
Đất Nước có từ ngày đó...
“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |