Nhà văn Khái Hưng khi nhìn những chiếc lá rụng rơi đã thầm nhủ: “Mỗi một chiếc lá rụng có một linh hồn riêng, một tâm tình riêng”. Và hẳn khi còn trên cành nó cũng có một linh hồn, một tâm tình riêng như thế. Ta bắt gặp chiếc lá với linh hồn rất riêng – một kiệt tác của tình yêu thương vô bờ trong truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" của O Hen-ri.
Kiệt tác mà người họa sĩ già Bơ-men tặng cho cô gái trẻ Giôn-xi khi cô đã ngớ ngẩn xây dựng cho mình niềm tin bất hạnh: Cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Câu chuyện về chiếc lá thường xuân cuối cùng không rụng ấy cũng là câu chuyện vô cùng cảm động về cụ Bơ-men – một họa sĩ già chân chính với trái tim giàu tình yêu thương và lòng nhân hậu.
Trong khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn ta bắt gặp những họa sĩ nghèo, đó là hai cô gái trẻ Xiu và Giôn-xi, cụ Bơ-men – một họa sĩ già. Cũng như hai cô gái trẻ, cụ Bơ-men sống nghèo khổ, phải làm việc cật lực để kiếm tiền và luôn nuôi mơ ước: về một bức tranh kiệt tác. Điều quý nhất ở cụ Bơ- men là lòng yêu thương con người. Dù chẳng họ hàng gì với hai cô gái trẻ, cụ vẫn tự nguyện làm một “con chó xồm” gác cửa cho hai họa sĩ trẻ và chăm sóc, bảo vệ hai cô gái như một người cha.
Rồi Giôn-xi bị gã “bợm già có hơi thở dồn dập và nắm tay đỏ lòm” tên là “viêm phổi” ghé thăm. Bệnh tình mỗi lúc một nặng và trong đầu Giôn-xi xuất hiện một ý nghĩ điên rồ: Khi nào chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống cũng là lúc cô sẽ ra đi. Câu chuyện đáng thương của cô họa sĩ yếu đuối và mỏng manh như chiếc lá giữa phong ba đã được cụ Bơ-men tiếp nhận bằng sự “khinh bỉ và nhạo báng” vì cụ không chịu nổi sự mềm yếu.
Với cụ Bơ-men, cái ý nghĩ của Giôn-xi là biểu hiện của yếu đuối, sự bất lực, sự buông xuôi và cụ không thể nào chấp nhận nó. Vì sao ư? Hãy nhìn vào cuộc đời của người họa sĩ già sáu mươi tuổi đời, bốn mươi tuổi nghề ấy ta sẽ thấy, dù nghèo túng, khổ cực, dù chưa bao giờ “với tới được gấu áo vị nữ thần của mình” cụ vẫn không ngừng nuôi hi vọng về cái “tác phẩm kiệt xuất sắp tới”.
Bởi vậy, sự mềm yếu, sự tuyệt vọng không bao giờ có trong ý nghĩ của cụ. Tuy nhiên dù “khinh bỉ và nhạo báng” nhưng cụ không quay lưng với hai cô gái trẻ, khi đứng trước Giôn- xi “yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá đang vật lộn với thần chết, cặp mắt cụ Bơ-men đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng”. Đó là những giọt nước mắt xót xa, thương cảm bởi từ sâu thẳm tâm hồn người nghệ sĩ già ấy, hai cô gái đáng thương được cụ yêu quý như con mình.
Nhìn căn phòng chật hẹp nơi Giôn-xi đang nằm trong cụ, cái khát khao về được một bức tranh – một kiệt tác lại thôi thúc: “Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Giôn-xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế”. Lại vẫn ước mơ đẫm chất nhân văn, ước mơ tốt đẹp gắn liền với lòng yêu thương con người sâu sắc, nghệ thuật đích thực theo quan niệm của cụ là phải hướng tới cuộc sống.
Và có lẽ, do quan niệm nghệ thuật phải đem lại những giá trị đích thực cho cuộc sống mà cụ đã tạo ra một kiệt tác trong khoảnh khắc chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Cây bút vẽ bao năm nằm buồn bã được đánh thức để cùng với cụ làm cho “chiếc lá cuối cùng” không rụng.
Nó đơn độc và “dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”. Chiếc lá can trường ấy đã giúp Giôn-xi tỉnh ngộ, cô chợt hiểu ra “muốn chết là một tội”, nó đem lại cho cô niềm tin, đem lại cho cô khát vọng sống. Và chính niềm tin, khát vọng đó đã cùng Giôn-xi chiến thắng gã “bợm già” viêm phổi có lúc tưởng chừng đã nuốt chửng cô.
Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Sau cái đêm mưa gió ấy hai ngày cụ Bơ-men đã ra đi, cụ bị viêm phổi vì đã dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá thường xuân trên tường, để giữ cho mầm hi vọng nhỏ nhoi trong lòng cô họa sĩ trong cơn bạo bệnh không bị vùi lấp, dập tắt.
Cụ đã trả lại sự sống cho chiếc lá, trả lại màu hồng trên đôi má của người thiêu nữ, trả lại niềm tin và nghị lực của con người, trả lại khát vọng vươn lên mãnh liệt cho cuộc đời. Cụ đã đổi tất cả những điều ấy bằng sinh mạng, bằng cuộc sống của mình. Cụ Bơ-men đã chết nhưng kiệt tác của cụ sống mãi trong lòng người. Nghệ thuật chân chính có sức mạnh diệu kì của sinh thành và tái tạo. Ta thấm thía hơn giá trị thiêng liêng và cao cả của nghệ thuật chân chính, của người nghệ sĩ chân chính, của O Hen-ri.
Hình ảnh cụ Bơ-men trong truyện ngắn được phác họa không nhiều nhưng đủ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về tình yêu thương con người và xả thân vì con người, vì lòng yêu thương đó. Chiếc lá cuối cùng là kiệt tác của cụ Bơ-men cũng là kiệt tác của niềm tin, của sự hồi sinh mãnh liệt. Kiệt tác ấy như một minh chứng cho sức mạnh của “nghệ thuật vị nhân sinh”.