Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Vịnh Đổng Thiên Vương - Phân tích bài thơ "Vịnh mùa đông"

11 trả lời
Hỏi chi tiết
394
0
0
Phạm Văn Bắc
07/04/2018 12:37:00

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
CenaZero♡
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Phạm Văn Bắc
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Bạch Tuyết
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Tôi yêu Việt Nam
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Đặng Bảo Trâm
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Trần Đan Phương
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Bạch Tuyết
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Nguyễn Thanh Thảo
07/04/2018 11:15:03

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Bạch Tuyết
07/04/2018 11:15:04

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   
0
0
Đặng Bảo Trâm
07/04/2018 11:15:04

Đề bài: Phân tích bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" của Cao Bá Quát

Bài làm

 "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng."                  (Ca dao Kinh Bắc) 

   Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng sử thi hào hùng:

 "Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn, Đằng vân do hận cửu thiên đê" (Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn, Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp) 

   Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ "Vịnh Đổng Thiên Vương" theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.

   Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người con trai làng Gióng. "Ba năm" với "một sớm", "náu mình" với "vùng dậy" thời gian với thời gian, dài và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:

 "Ba năm rồng náu chừa ai hay, Oanh liệt ra tay bỗng một ngày" 

   Tuổi thơ của Gióng "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: "tam tải tiềm long". Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời. Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:

 "Ăn bảy nong cơm, ba nong cà  Uống một hớp nước cạn đà khúc sông" 

   Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì. Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.

   Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần thoại: "kim tiên" (roi vàng), "thiên thanh" (tiếng trời), "thiết mã" (ngựa sắt), "cỡ tích" (tích cũ, dấu cũ). Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: "phá lỗ" (phá giặc), "chấn" (chấn động), "đằng không" (bay lên không), "kì" (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành "roi vàng". Câu thơ đối chỉnh, làm hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:

 "Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn  Thiết mã đằng không cổ tích kì" (Phá giặc roi vàng gám sấm sét Lên không ngựa sắt lạ xưa nay) 

   Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: "gầm sấm sét", "lạ xưa nay", ... Các từ ngữ hình ảnh như "thiên thanh chấn ..." lại không dịch được.

   Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ "trời đất Việt" đến "cỏ cây Ân" đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):

 "Công ghi cõi Việt so trời đất,  Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây."  

   Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy, Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:

 "Đứa thì sứt mũi, sứt tai,	 Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà." 

   Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.

   Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến thắng giặc Ân trở về:

 "Miếu cũ thông reo khi gió động,   Tướng quân thắng trận trở về đây" 

   Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:

 "Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về"                    (Đất nước) 

   Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất, ... Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.

   "Vịnh Phù Đổng Thiên Vương" là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan Viên đã viết:

 "Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt  Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng."  ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")   

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k