Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nghị luận về văn bản Cảnh ngày xuân; Chị em Thúy Kiều

1. Nghị luận về văn bản Cảnh ngày xuân
2. Chị em Thúy Kiều
4 trả lời
Hỏi chi tiết
430
1
0
....^_^....
26/12/2018 14:55:11
Câu 1:
Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã gợi tả khung cảnh mùa xuân tuyệt đẹp :

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Qua việc miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật, tác giả đã gợi lên một khung cảnh khoáng đạt và tràn trề sức sống. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Đến câu thơ tiếp theo, tâm trạng tiếc nuối ấy đã hiện lên thật rõ. “Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ : tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân :

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy : “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc : “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, hật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.

Tiếp nối bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp ấy, Nguyễn Du đưa người đọc đến với một khung cảnh tươi đẹp không kém – cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Mở đầu cho bức tranh ấy là hai câu thơ giới thiệu khái quát về thời gian cũng như hoạt động của con người :

Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

Tiết Thanh minh là dịp để mọi người đi viếng thăm, quét dọn, sửa sang và cúng bái, khấn nguyện trước phần mộ những người đã khuất. Từ lâu, đây đã là một phong tục cổ truyền của dân tộc ta. Và tất nhiên, sau lễ là hội, hội “đạp thanh”, tức là giẫm lên cỏ xanh mà đi chơi xuân. “Tảo mộ" là dịp để ta tìm lại những ký ức xa xưa, nối lại mối dây liên hệ giữa người đã khuất với người còn sống. Còn “đạp thanh” lại gợi lên cảnh các chàng trai, cô gái gặp gỡ, làm quen và rất có thể dẫn đến những sợi tơ hồng kết duyên mai sau. Bên cạnh điệp từ “là”, cặp tiểu đối “lễ là tảo mộ” – “hội là đạp thanh” được đặt cạnh nhau trong một câu thơ không chỉ nói lên sự nối tiếp liên tục của những tươi vui, nhộn nhịp, rộn ràng trong ngày lễ hội, mà còn muốn nói một điều gì hơn thế. Nguyễn Du đã gửi vào đó những suy ngẫm về khát khao, hy vọng của những người đi chơi xuân, hay cụ thể hơn – của Thúy Kiều về những điều tốt đẹp của cuộc đời phía trước. Và với suy nghĩ ấy, chị em Thúy Kiều hòa mình vào dòng người tấp nập đi trẩy hội :

Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm

Ở đây, một lần nữa ta lại được gặp nghệ thuật miêu tả ước lệ. Mùa xuân là lúc chim yến , chim oanh tụ họp lại ríu rít bay lượn trên không trung. Tác giả đã vận dụng hình ảnh ấy dưới cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” để gợi tả hình ảnh những đoàn người đi du xuân trong không khí rộn ràng, đông vui. Xuân không chỉ về trong thiên nhiên mà còn tràn ngập trong lòng người. Các tính từ “gần xa”, “nô nức” đã đặc tả cảnh người người khắp nơi cùng tụ hội lại trong tâm trạng náo nức, vui tươi của lễ hội. Đó cũng chính là tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi : “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, những cô thiếu nữ như họ ít có dịp được tham gia một cuộc vui nhộn nhịp như lần này, nên dù chưa đến hội, hai chị em đã như mở hội trong lòng. Động từ “sắm sửa” đã diễn tả được sự háo hức, trông mong ấy của họ. Rất tự nhiên, họ hòa vào dòng người nườm nượp những nam thanh nữ tú. Dưới cách nhìn phơi phới xuân xanh của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã biến một cảnh lễ hội tưởng như năm nào cũng có thành một ấn tượng khó phai trong mắt người đọc. Nếu như ở hai câu thơ trước có “yến anh” thì ở hai câu sau cũng rất xứng với “tài tử giai nhân”, làm bật lên cảnh những chàng trai cô gái phong lưu, thanh lịch, áo quần tươi thắm trong buổi hội xuân đang “Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa”. Từ láy “dập dìu” gợi lên từng đoàn, từng đoàn người đi lại tấp nập, đông đúc nhưng vẫn rất uyển chuyển, nhịp nhàng như những đợt sóng. Nhịp điệu ấy làm chậm lại dòng chảy trong “ngựa xe như nước”, và cho dù “áo quần như nêm” nhưng lễ hội lại không chật cứng mà vẫn có một điều gì đó rất khoan thai trong từng chiếc xe, từng bước chân. Ấy là sự khoan thai, thơ mộng và trữ tình của tâm hồn tuổi trẻ đang say sưa trong không khí mùa xuân. Hai hình ảnh so sánh được đặt liên tiếp nhau trong câu thơ càng khiến cho khung cảnh ấy thêm sống động. Nguyễn Du đã vô cùng khéo léo trong việc biến đổi phép đối, khi thì dồn lại giữa “tài tử” và “giai nhân”, khi thì tách giãn “ngựa xe như nước” và “áo quần như nêm”, khi ẩn khi hiện một sức hút khó tả và rất riêng của cảnh ngày xuân. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng hàng loạt những từ có hai âm tiết thuộc nhiều từ loại khác nhau để miêu tả không khí lễ hội thật rộn rã : danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân), động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức). Trong đó vừa có từ ghép, vừa có từ láy, tự sự hòa vào với miêu tả, làm sống lại trước mắt người đọc một ngày hội đậm chất trữ tình, khiến cho ta cũng như ngây ngất trong không khí tràn đầy sức xuân ấy. Và tất nhiên, tả lễ hội trong tiết Thanh minh thì không thể thiếu một phong tục rất quen thuộc :

Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

Phong tục cổ truyền đã có từ nghìn xưa được Nguyễn Du đưa vào câu thơ thật sinh động. “Ngổn ngang gò đống” không chỉ gợi tả cảnh những ngôi mộ mà còn muốn nói đến những đống tro tàn vương vãi khắp nơi trên mặt đất. Đi tảo mộ, không thể không rắc thoi vàng vó, đốt tiền vàng mã, để tưởng nhớ những người đã khuất. Trong cảnh tượng khói bay nghi ngút ấy như âm ỉ cháy những lời thì thầm vọng về từ quá khứ, từ ông bà tổ tiên. Sự cách trở âm dương tưởng chừng như bị xóa nhòa, quá khứ được kéo gần hơn tới hiện tại trong không gian thiêng liêng đầy thành kính ấy. Không hề có sự nặng nề, âm u tưởng chừng như luôn chập chờn đâu đó khi ta nhắc đến mồ mả, mà thay vào đó là một nét đẹp rất thanh tao của văn hóa phương Đông về nghĩa tình với những người đã khuất. Có thể trong thời buổi hiện đại ngày nay, phong tục ấy được xem là sự mê tín cổ hủ, nhưng giá trị nhân văn trong những vần thơ của Tố Như vẫn làm ta xúc động về đời sống tâm linh của người xưa. Vẫn là bút pháp gợi hình gợi cảm, nhưng bằng hàng loạt từ ngữ miêu tả, Nguyễn Du đã tái hiện lại cảnh "hội" mùa xuân thật sống động, rộn ràng và tươi vui nhưng cũng không làm mờ đi chữ "lễ" qua những phong tục cổ truyền của dân tộc.

Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:

"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong canh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nuóc uống wanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."

Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua.

Nguyễn Du đã cho ta thấy một ngày xuân nô nức , vui tươi . Nghệ thuật tả cảnh, tả tình của ông như thế thật khéo và cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
....^_^....
26/12/2018 14:56:37
Câu 2:
Tác giả Nguyễn Du là một đại thi hào của nền văn học nước ta. Ông cũng là một trong bốn danh nhân văn hóa của Việt Nam được thế giới công nhận. Trong tác phẩm Truyện Kiều tác giả Nguyễn Du đã khắc họa nhân vật vô cùng thành công.

Thông qua tác phẩm của mình tác giả muốn thể hiện tinh thần nhân văn của mình với những thân phận, người con gái tài sắc nhưng chịu thiệt thòi khi phải sống trong xã hội phong kiến “trọng nam kinh nữ”

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện nét đẹp về dung mạo cũng như khắc họa tính cách của hai chị em nhà họ Vương, Thúy Kiều và Thúy Vân.

Qua lời lẽ ngôn ngữ của mình chúng ta thấy Thúy Kiều và Thúy Vân là hai bậc tài sắc, quốc sắc thiên hương, mặn mà, xinh đẹp đoan trang. Đặc biệt, là cô chị Thúy Kiều là người vô cùng thông minh lanh lợi, hoạt bát, tài sắc đều mười phân vẹn mười.

Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Trong bốn câu thơ đầu tiên người đọc có thể thấy rằng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa lên hình ảnh của hai chị em họ Vương thể hiện cho sự thanh cao, sang trọng, thể hiện cho sự hoàn mỹ, trong trắng về tâm hồn cũng như thể xác.

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Trong những câu thơ này nét đẹp của Thúy Vân hiện lên thật khiến người ta phải ngưỡng mộ. Một người con gái trang trọng, thể hiện sự đoan trang, có gương mặt tròn và phúc hậu “Khuôn trăng” có những nét đẹp đại diện cho người phụ nữ Á Đông “nét ngài nở nang” thể hiện cho một người đoan trang, hiền thục, dáng người tròn lẳn “thắt đáy lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.

Chị em Thúy Kiều
Một tướng phụ nữ tốt mang lại nhiều thuận lợi cho người chồng, cũng như thể hiện cuộc sống bình an của nàng sau này.

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Nguyễn Du không nhắc nhiều đến vẻ đẹp của Thúy Kiều, ông chỉ sử dụng nghệ thuật đòn bẩy để làm nổi bật tài sắc của Kiều thông qua miêu tả Thúy Vân. Nhưng một chữ “hơn” đủ để làm người ta biết được Thúy Kiều tài sắc ghê gớm, mười phân vẹn mười gấp nhiều lần.

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một tài đành họa hai.Một vẻ đẹp sắc sảo, khiến cho liễu hờn, mây thua. Thúy Kiều đẹp tới mức mà mọi loài hoa phải ghen tị, phải ẩn mình đi vì nàng quá xinh đẹp, kiêu sa, tới mức làm mọi vật khi thấy nàng phải tự xấu hổ, ẩn mình đi không dám khoe sắc.

Một nét đẹp sắc sảo thông minh, nhưng cũng dự báo trước tương lai không mấy thuận lợi, gặp nhiều trắc trở của Thúy Kiều. Bởi một người con gái mà xinh đẹp tài sắc tới mức hoa nhường, nguyệt thẹn thì sẽ làm con người khó lòng mà yêu mến được, nhất là phụ nữ vì phụ nữ thường ghen ghét những ai xinh đẹp hơn mình.

Người ta thường nói gái xinh thì không thông minh. Nhưng Thúy Kiều là trường hợp ngoại lệ, tác giả Nguyễn Du đã vô cùng ưu ái khi cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm. Nàng không chỉ xinh đẹp, đoan trang, mà còn vô cùng thông minh, tài giỏi, cầm, kỳ, thi, họa nàng đều biết hết. Một cô gái đa tài.

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha mùi thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung Thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Tác giả Nguyễn Du đã vẽ lên một Thúy Kiều vô cùng hoàn mỹ, không có điểm gì khiếm khuyết để thể hiện tình yêu của tác giả dành cho nhân vật của mình. Một người con gái tốt như vậy đáng ra phải được hạnh phúc sống vinh hoa phú quý. Nhưng cuộc đời này lại gặp quá nhiều gian nan, trắc trở, ba chìm bảy nổi, lưu lạc tha phương suốt 15 năm, chịu nhiều cay đắng, tủi nhục.

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là đoạn trích hay thể hiện sự tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả Nguyễn Du.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
26/12/2018 17:55:07
Đề 1:
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.
Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chin chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với XD, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.
Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. NGhệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ “rợn” vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bứng sang lên sức sống tràn đầy Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết “một vài bông hoa” trắng tinh khiết. CHính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Không khí mùa xuân như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Có lẽ không khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với không khí những ngày xuân tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tô điểm thêm bức tranh ngày xuân tươi đẹp đó
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Mùa xuân là dịp để “tài tử giai nhân” được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau. Có vẻ như mùa xuân là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh “ngựa xe”, “áo quần” gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình, ảnh tả khiến cho người đọc có cảm giác như đang bước vào không khí của mùa xuân.
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạ, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm lòng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất, những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.
Tuy nhiên những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn vã và đìu hiu hơn:
Tà à bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn phong khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy “tà tà” đã phần nào gợi tả thời gian đã xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trongt trái tim. Tâm sự của con người như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác hơn.
Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn rang, náo nức và có chút buồn phiền được Nguyễn DU khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
26/12/2018 17:57:36
Đề 2:
Nguyễn Du là kiệt xuất trong nền văn học Việt Nam với tác phẩm nổi tiếng “Truyện Kiều”. Đây là thiên truyện bằng thơ kể về cuộc đời bể dâu, sóng gió của kiếp hồng nhan bạc mệnh. Tác phẩm được xem là công trình nghệ thuật ngôn ngữ đồ sộ. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa nhuần nhuyễn vàthành công hình ảnh hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Với cách mở đầu giới thiệu giản dị nhưng mang tính khái quát, ông đã dẫn dụ người đọc đi tìm hiểu vẻ đẹp, tính cách của hai tuyệt sắc giai nhân:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Bốn câu thơ khiến người đọc đã có thể hình dung được hình ảnh của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Mai tượng trưng cho sự thanh nhã, cao sang còn tuyết tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng. Nguyễn Du đã khéo léo ví von vẻ đẹp của hai chị em như “mai” và “tuyết” thực sự rất tinh tế và đầy ẩn ý.
Ở những câu thơ tiếp theo, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã vẽ nên vẻ đẹp của Thúy Vân chỉ qua vài đường nét nhưng đủ để người đọc giật mình vì vẻ “quốc sắc thiên hương”:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Chỉ với 4 câu thơ, 4 nét vẽ nhưng Nguyễn Du đã khiến người đọc phải mê mẩn vì vẻ đẹp hiếm có của Thúy Vân. Sự thanh tao, tròn vẹn của thiếu nữ “đến tuổi cập kê” thật khiến người khác ngưỡng mộ. Nụ cười của nàng tươi như hoa, lông mày hình cánh cung nở nang, viên mãn, làn da trắng như tuyết. Một vẻ đẹp tròn vẹn, nhẹ nhàng của Thúy Vân được lột tả qua biên pháp tu từ nhân hóa cùng sự cảm nhận tinh tế của Nguyễn Du. Sự nhẹ nhàng, duyên dáng của Thúy Vân dự báo một tương lai bình lặng, êm đềm của cô mai sau.
Vẻ đẹp của Thúy Vân đã khiến người đọc ngỡ ngàng như thế thì chắc chắn vẻ đẹp của Thúy Kiều khiến người đọc không thể kìm được lòng. Nguyễn Du đã dùng nghệ thuật đòn bẩy từ việc miêu tả vẻ đẹp Thúy Vân trước rồi mới đến miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều. Sự tài tình của Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tâc nghệ thuật:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Nguyễn Du chưa hề đề câp đến sắc đẹp của Thúy Kiều, ông chỉ nhấn mạnh cái “hơn” của cô chị trên cái nền của cô em.
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Một vẻ đẹp trên cả tuyệt đối của Thúy Kiều dưới ngòi bút miêu tả xuất chúng của Nguyễn Du. Dường như ông đang vẽ chứ không phải là viết nữa, đây chính là cái tài hiếm có ở Nguyễn Du. Đôi mắt Thúy Kiều trong xanh như làn nước mùa thu, lông mày thanh mảnh như nét núi mùa xuân hiền hòa. Vẻ đẹp của Thúy Kiều khiến thiên nhiên phải “hờn”, phải “ghen”. Nó hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của Thúy Vân chỉ khiến thiên nhiên nhún nhường.
Vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều lại khiến cho cuộc đời sau này của cô không hề yên ổn, gặp nhiều sóng gió. Đây chính là sự dự báo của Nguyễn Du cho cuộc đời nhiều cay đắng và nước mắt của Thúy Kiều.
Nguyễn Du đã nhắc đến tài năng của Thúy Kiều bằng những câu thơ:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha mùi thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung Thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Nếu như tài năng của Thúy Kiều đứng thứ hai thì không có ai là thứ nhất. Thúy Kiều đa tài, cầm kỳ thi họa đều đủ cả. Nhưng liệu rằng cuộc đời của cô mai sau có yên ổn và sung sướng hay không.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một đoạn trích đẹp và nội dung và đẹp về ngôn từ. Đó chính là thành công của Nguyễn Du khi khắc họa vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k