Ca dao là văn chương truyền khẩu, chữ nghĩa đời thường, cấu trúc đơn giản, ý tứ mộc mạc. Cũng phải cung cách ấy, điệu thức ấy mới ứng với tâm tính dân ta chất phác, đôn hậu, hướng nội, hướng tới sự quân bình, hài hòa. Ca dao gần như nhất quán một thể thơ lục bát – lục bát ca dao, ca dao lục bát. Thơ lục bát ôm vần, cắt nhịp chẵn, bước thơ đều đều nhịp đôi nhẹ-nặng, dày đặc các thanh bằng, nghe cũng có phần đơn điệu thật.
Cuộc sống một phong phú, một nổi trôi, tình người càng đằm, càng đa đoan, ca dao theo đó trau chuốt hạ chữ, gieo vần gợi cảm, vang dội thanh âm, bay bổng giai điệu, chất chồng cấu tứ, đầy tính cách thơ: “Đêm đêm tưởng giải ngân hà. Mối sầu tinh đẩu đã ba năm tròn”.
Thông thường là vậy. Để chuyển tải đầy đủ các cung bậc, sắc thái cuộc sống, tư duy, tình cảm, ca dao lục bát còn vươn lên những biến tấu kỳ diệu: Vì sông / nên phải lụy đò. Vì chiều tối/ phải/ lụy cô bán hàng. Vì tình/ nên phải đa mang. Vì duyên/ thiếp biết quê chàng/ ở đây.
Ca dao là thân xác, lục bát là vòng tay. Cứ thế lục bát ôm trọn ca dao vào lòng đểấp ủ cái hương thơ của hồn quê, của tình người. Tự nhiên như không, ca dao thành câu hát ru, thành khúc dân ca. Ca dao ru con trẻ vào giấc ngủ “Con cò bay lả bay la”. Ca dao tình tự gái trai nên vợ nên chồng thuận hòa “tát bể đông cũng cạn”.
Một dạo, nhiều người nhất hô bá ứng đòi ca dao trả lại hai câu cuối trong bài thơ Trăng quê cho chính chủ Bàng Bá Lân làm hồi giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước.
Không hiểu từ đâu, vì sao, chỉ hăm mấy năm sau đấy, học giả Vũ Ngọc Phan lại đưa câu lục bát “Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” vào hai tập tuyển ca dao công phu, được giới văn nghệ đương thời tán dương. Phần vì quá cách trở, phần vì uy tín quá lớn của soạn giả uyên bác, Bàng Bá Lân cho đến cuối đời vẫn không một lần đánh tiếng cải chính đó là thơ mình làm.
Hẳn trong thâm tâm thấy ca dao chỉ chỉnh, đảo một chữ thôi trong câu thơ của mình “… lại múc trăng vàng” thành ca dao “múc ánh trăng vàng” làm dậy lên một hồi âm đẹp tuyệt, một hình tượng nghệ thuật thật đắt để biến một câu lục bát thường thường bậc trung thành câu thơ tuyệt vời.
Trước đó, “ánh trăng” không sáo mòn ấy đã làm nên câu thơ mới trọn vẹn bước thơ, vang dội cấu tứ trong bài Nhớ rừng để đời của Thế Lữ: “Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Sau này, Cung Trầm Tưởng tân kỳ lục bát là thế cũng “Ánh trăng quện nước gầu sòng. Trời loang loãng cháo dưới dòng sao tâm”.
Như bao nhà thơ khác, Bàng Bá Lân một mực ngưỡng mộ câu ca dao lục bát: “Gió đưa hoa cải lên trời. Rau răm ở lại chịu đời đắng cay” thơ hơn bất kỳ một câu thơ trác tuyệt nào khác. Một tính thơ mơ hồ, đa nghĩa, huyền ảo của câu lục bát ca dao ấy đến độ cực đại. Giữa các từ ngữ, nhịp điệu, hình tượng là những quãng không. Mỗi lần đọc là một thao tác lấp đầy các khoảng trống đó, là một diễn dịch mới mênh mông thi tứ, đong đầy cảm xúc.
Nghe Tùng Dương hát Quê nhà của Trần Tiến, ai mà chẳng thấy phiêu linh cứ như bay, bay lên tít trời cao xanh cùng hoa cải, nhưng lại nặng lòng nỗi đắng cay, ngọt bùi nhân gian níu kéo lại với rau răm nơi trần thế. Đằng nào hơn, sao tỏ tường được đây, mỗi người mỗi phách!
Qua bốn ngàn năm, các thi sĩ tài hoa dân gian đã đi vào dĩ vãng, ca dao còn lại thành di sản văn chương, không đứt đoạn với thơ ca mà làm nền móng vững chãi, màu mỡ để lục bát thăng hoa hiện đại.
Huy Cận đã làm thay đổi thẩm mỹ lục bát ca dao – triệt hạ tính tự sự để chất ngất cái trữ tình, cổ kính hóa lục bát như thơ Đường cao sang bằng sự cô đọng chắt chiu, biến cái buồn mênh mang thành nỗi sầu vạn cổ…
Bái phục, nhưng Cung Trầm Tưởng vẫn cứ thoát khỏi vầng vàng son ảnh hưởng, tác động lớn lao ấy để bước trên con đường lục bát ca dao tân kỳ của mình.
Giữa thế kỷ trước, Cung Trầm Tưởng xuất hiện trên thi đàn chói sáng với tập thơ đầu tay Tình ca được đón nhận nhiệt liệt – năm trong số 13 bài được các nhạc sĩ đua nhau phổ nhạc. Trong số đó, nổi trội đặc sắc bài thơ hẹn tình Kiếp sau với cô gái bên trời Âu: “Quên em xanh mắt bồ câu. Tơ vàng sợi nhỏ xin hầu kiếp sau” mang hơi thơ cổ điển, nặng hồn lục bát ca dao.
Với Cung Trầm Tưởng, làm thơ là làm chữ, chữ cặp với chữ thành bước thơ tung tẩy thi tứ. Trong Kiếp sau, ông trau chuốt buông chữ: bù em, quên em… đầu câu: Bù em nối núi chung đồi, rồi treo chữ: cũng rồi, nghe dường… vần lưng trong câu tám kế tiếp: Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ, lại đảo chữ – mòn trông, tạo cảnh: chiều lu: Mòn trông ngưỡng cửa chiều lu mãi sầu.
Ông khổ công gieo chữ thần tình, làm lỗi nhịp, đảo cái thần lục bát ca dao là nhằm tục lụy hóa cái cổ điển, hóa thân ca dao lục bát hiện sinh. Bà Thụy Khuê lý luận văn chương ở Pháp rúng động: “Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao tân kỳ hiện sinh”: …“Quên thôi bông sẽ phai hường. Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu. Non sông bóng mẹ sầu u. Mòn trông ngưỡng cửa chiều lu mãi sầu…”.
Ca dao nhất nhất nói lên điều hay lẽ phải, cái đẹp cái hay, tính hướng thiện, lòng nhân ái. Ca dao là tâm hồn dân tộc. Nó chuyển tải suy tư, chất chứa tâm tình cho người, cho đời. Cho những hẹn hò gái trai, cho những náo nức hội mùa, cho làng trên xóm dưới. Cho cả những vết thương lòng. Ca dao còn “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn”, cảm hóa người thương cảm người hơn, san sẻ cho nhau hơn, bồi đắp tình làng nghĩa xóm.
Ca dao tuyệt nhiên không dung cái xấu xa, cay nghiệt, cái hận thù, ác độc, sự chém giết, sát hại lẫn nhau. Ca dao không bao giờ có cô Tấm từ trong trái thị thơm tho bước ra lại ác nghiệt xúi dại em gái Cám tắm gội bằng nước rõ sôi hòng da dẻ trắng mịn như trứng gà bóc, rồi làm mắm trả ác với dì ghẻ. Ca dao chỉ trải nghiệm: “Mấy đời bánh đúc có xương. Mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng” thế thôi.
Cứu cánh của ca dao là nuôi dưỡng tâm hồn Việt: “Mẹ ru cái lẽ ở đời. Sữa nuôi thân xác, hát nuôi phần hồn” (Yên bình), Huy Cận tinh tế, cảm nhận ngay cái “hồn thiêng đất nước” trong tiếng ru hời ca dao mẹ Việt Nam: “Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi. Hồn thiêng đất nước còn ngồi bên con”.
Thế hệ sau, Trịnh Công Sơn lòng quặn thắt những xô bồ, ác nghiệt xô đẩy cuộc sống, đời người xa rời lời ru ca dao lục bát của mẹ: “Em chưa hát ca dao một lần… máu lạnh trong tim… lời nói yêu thương mất rồi”.
Cùng một suy tư âu lo ấy, Cao Xuân Hạo, sinh thời, không biết bao lần khẩn khoản đề nghị đưa ngay ca dao vào học đường, khi con trẻ vừa cắp sách tới trường. Trước là dễ học, dễ nhớ để một yêu: “Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim… Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt”. Sau là “Ai đời sau nói tiếp những lời yêu” (Lưu Quang Vũ), “Từ nay người biết yêu người” như Văn Cao khát khao cất lên thành tiếng hát Mùa xuân đầu tiên.