Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Vũ Nương

6 trả lời
Hỏi chi tiết
739
3
0
❤白猫( shiro neko )❤
07/06/2019 22:10:19
Tinh thần nhân đạo đã trở thành linh hồn của nhiều tác phẩm văn học. Nội dung ấy được thể hiện dưới nhiều màu sắc, hình thức. Trong văn học trung đại, một trong những biểu hiện của tinh thần nhân đạo là tấm lòng nhân ái đối với số phận mong manh, nhiều bất hạnh của người phụ nữ. Qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, nội dung đó được thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu.
Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn hậu bao dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là nàng Vũ Nương đẹp nết đẹp người và đầy tự trọng.
Nàng có một “tư dung tốt đẹp" nức tiếng xa gần. Chẳng vậy mà Trương Sinh - một người “con nhà hào phú” phải xin mẹ trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. Chẳng những vậy, nàng còn là người phụ nữ hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con.
Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không lần nào vợ chồng phải đến nỗi bất hoà”.Hai vợ chồng chia li, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. [...] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Như vậy là nàng không hề nghĩ đến vinh hoa phú quý, chỉ nghĩ đến chân thành với tình vợ chồng keo sơn. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được".
Trương Sinh trở về, nghi cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc; dùng những lời lẽ tàn nhẫn mà nhiếc móc nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng mất, nặng thương yêu, lo lắng chu toàn: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”. Tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động để khi mất, những lời cuối cùng thiêng liêng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu. Xưa nay, trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói “mẹ chồng con dâu” để chỉ mối quan hệ vốn không yên ấm giữa hai đối tượng này nhưng qua thái độ của người mẹ chồng đối với Vũ Nương người đọc thấu hiểu tấm lòng chân thành, sâu sắc đối với mẹ chồng của nàng.
Với con, Vũ Nương đã hết sức nuôi dạy, bảo ban, thương yêu và chiều chuộng con (để đến nỗi một trong những hành động vô tư của nàng đã trở thành nguyên nhân buộc nàng tự vẫn...).
Không chỉ vậy, với tư cách là một cá nhân trong xã hội, ở Vũ Nương còn nổi bật lên lòng tự trọng đầy cảm động. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn khao khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm hứng ngợi ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương của Nguyễn Dữ ta còn có thể kể đến chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm,...
Nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai họa khôn lường: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại cất lên tiếng nói đồng cảm với những thân phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”.
Nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh.
Trước hết, nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đáng ra nàng phải được kén một tấm chồng đức tài tương xứng. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời lại chỉ dành cho nàng một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vô học nhưng giàu có “con nhà hào phú” “xin mẹ trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó như một cuộc trao đổi, mua bán đầy tính thương mại.
Về đến nhà chồng, Vũ Nương phải hết sức giữ gìn trước con người rất mực đa nghi của Trương Sinh: “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Nhưng hạnh phúc phải do cả hai bên vợ chồng cùng đắp vun gìn giữ. Sau mấy năm dài đằng đẵng mong ngóng chồng về, cái giá Vũ Nương nhận được thật quá chua xót.
Khi chồng đi lính, đêm đêm để con đỡ tủi và lòng mình đỡ nhớ, Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách rồi bảo con đó là cha nó. Nhưng thiện ý của nàng đã bị hiểu lầm. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn đến của nó, Trương Sinh với tính đa nghi sẵn có đã hiểu oan cho tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Chàng ta vội nghe lời con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được". Rồi hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”.
Trước nỗi oan không gì giãi bày được (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên cớ việc nổi giận của mình), cuộc đời Vũ Nương bế tắc: nếu sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi vậy, dẫu vẫn còn khao khát vương vấn hạnh phúc trần gian, nàng đành chấp nhận cái chết, trầm mình xuống sông Hoàng Giang.
Thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy, họ không được làm chủ cuộc sống của mình, luôn luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng. Số phận bất hạnh của Vũ Nương gợi đến bao phong ba bão táp đã đi qua cuộc đời của những Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ, người chinh phụ,... trong văn học trung đại.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến, mặt nước diệu kì.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn. Chính cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm đã giúp “Chuyện người con gái Nam Xương” của ông đi suốt những năm tháng lịch sử thăng trầm của dân tộc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Ori
07/06/2019 22:38:50
Đề tài người phụ nữ từ bao đời nay luôn được các nhà văn quan tâm. Họ quan tâm đến vẻ đẹp của người phụ nữ hay cả số phận bất hạnh của họ. Và Nguyễn Dữ đã chọn người phụ nữ làm nhân vật chính trong tác phẩm của mình. Chuyện người con gái Nam Xương được trích trong “Truyền kì mạn lục” viết về nhân vật Vũ Nương người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng có số phận bất hạnh.
Đọc Truyện người con gái Nam Xương người đọc ấn tượng về nhân vật Vũ Nương một người phụ nữ đẹp người đẹp nết. Nàng chăm lo cho hạnh phúc gia đình “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của màng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thấy thông cảm trước nỗi gian lao, vất vả của chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.” Để rồi khi còn một mình ở lại quê nhà nhưng nàng vẫn là người phụ nữ thủy chung “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.” Nỗi nhớ thương kéo dài năm tháng “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”
Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ yêu thương con. Nàng chăm sóc mẹ chồng chu đáo, cơm nước thuốc thang lễ bái lời nói hành động đã chứng tỏ nàng là người con dâu hiếu thảo tạo ra mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu tốt đẹp. Đay cũng chính là cách nhìn cách viết mới của tác giả khi nhìn nhận về quan hệ của mẹ chồng nàng dâu ở xã hội phong kiến. Là một người mẹ nàng vô cùng yêu thương con của mình. Sau khi xa chồng nàng sinh bé Đản và một mình nuôi dạy con. Và khi bị chồng nghi oan nhưng vẫn giãi bày, giải thích để mong hàn gắn hạnh phúc gia đình, hành động chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Đó chính là lòng tự trọng của Vũ Nương. Và ngay cả khi được sống ở thế giới thần tiên sung sướng nhưng nàng vẫn nặng lòng nhớ đến gia đình và quê hương. Cuộc trở về của Vũ Nương kết thúc truyện cùng với lời từ biệt “ Đa tạ tình chàng thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa.” Lờ từ biệt đẫm trong nước mắt trong tâm trạng buồn mà sáng lên vẻ đẹp của con người coi trọng ơn nghĩa và tấm lòng vị tha.
Mặc dù là người phụ nữ đẹp người đẹp nét nhưng Vũ Nương lại có số phận bất hạnh. Với cuộc sống gia đình người chồng đa nghi và đó là nguyên nhân dẫn đến cảnh gia đình tan vỡ. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi hạnh phúc của người phụ nữ phải sống xa chồng. Cuộc sống cô đơn, buồn tẻ một mình “ Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.” những từ ngữ chỉ thời gian, những câu văn biền ngẫu hình ảnh mang tính ước lệ “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” chỉ thời gian hết mùa xuân lại đến mùa đông mà Trương Sinh vẫn chưa trở về làm cho Vũ Nương càng lo lắng nhớ thương trông đợi. Gánh nặng gia đình phải chăm sóc mẹ, sinh con một mình mà không có chồng bên cạnh với bao nỗi vất vả. Nàng còn bị chồng nghi oan, bị đánh đuổi, mắng nhiếc. Cuối cùng nàng phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Truyện ngắn với cách xây dựng cốt truyện tập trung vào nhân vật Vũ Nương. Tạo tình huống đặc sắc, bất ngờ, miêu tả nhân vật thông qua lời nói và hành động để bộc lộ tính cách. Sử dụng các câu văn biền ngẫu mang tính ước lệ cùng với yếu tố hiện thực kết hợp với hoang đường kì ảo. Tất cả các yếu tố nghệ thuật đã góp phần khắc họa nhân vật Vũ Nương người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng có số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Với nhà văn Nguyễn Dữ không chỉ thành công ở thể truyền kì mà là người có trái tim nhân đạo ông bày tỏ lòng cảm thương cho số phận Vũ Nương bằng cách dùng những lời văn hay nhất để ngợi ca vẻ đẹp của nàng. Đó cũng chính là sự đóng góp thành công cho tác phẩm.
Đọc truyện mà khơi gợi trong nỗi chúng ta niềm xót xa thương cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội chưa. Và người phụ nữ ngày nay không ngừng chau dồi học hỏi để phát triển bản thân mình.
2
0
doan man
07/06/2019 22:53:58
"Chuyện người con gái Nam Xương" rút trong tác phẩm "Truyền kì mạn lục", áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16. Một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là "thiên cổ kì bút". Truyện kể lại môt câu chuyện truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian về bi kịch gia đình ở Nam Xương có dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15, một thời loạn lạc, đầy biến động.
Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp". Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến vì dung hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính "đa nghi", nàng đã "giữ gìn khuôn phép" không để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa", sống giũa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng "được hai chữ bình yên": nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ... Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "... mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được".
Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
... "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa cọn trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, "việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về. Thế nhưng, Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã "máng nhiếc" và "đánh đuổi đi". Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời "bày tỏ" của vợ, mọi sự "biện bạch" của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là người vợ "mất nết hư ân". Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng", mãi mãi soi tỏ với dời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ". Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa !". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con "rày xin chén nước cho người thác oan" (Truyện Kiều).
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện... là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh... yên phận hẩm hiu, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa? nhưng âm - dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhung áng văn "Chuyện người con gái Nam Xương" giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài "Lại bài viếng Vũ Thị":
... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."
___________________
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
08/06/2019 07:10:57
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đã trở thành đối tượng phản ánh của khá nhiều các tác phẩm nghệ thuật: âm nhạc, hội hoạ, thơ văn. Hình ảnh của họ xuất hiện dù bất kì ở hoàn cảnh nào dù hạnh phúc hay đau khổ, dù bất hạnh hay đớn đau - người phụ nữ trước sau như một vẫn là những người giàu lòng hi sinh, nhân hậu, cao thượng.Họ bước vào văn thơ như chính cuộc đời của họ. Có những câu chuyện kể, đã trở thành huyền thoại, thành truyện dân gian, thành truyện truyền kì kể đến muôn đời sau về tấm lòng chung trinh của họ.
Nhân vật Vũ Nương trong truyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là người như vậy. Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ được tác giả miêu tả là người con gái có tư dung tốt đẹp, thuỳ mị nết na. Một người con gái có sắc đẹp và đức hạnh như vậy hứa hẹn một tương lai hạnh phúc, cuộc đời của nàng sẽ sung sướng an lành. Sắc đẹp và đức hạnh của nàng đã lọt vào mắt xanh của Trương Sinh người cùng làng mến vì dung hạnh của nàng mà xin mẹ một trăm lạng vàng để cưới nàng về làm vợ. Trong quan niệm của xã hội phong kiến một người được cưới hỏi mai mối đàng hoàng như nàng rõ ràng là danh giá lại được Trương Sinh mến yêu vì dung hạnh. Nhưng xét cho đến cùng Vũ Nương cũng bao người phụ nữ khác trong xhpk đều chịu chung bất hạnh là không được lựa chọn người bạn đời của mình. Hạnh phúc của họ vốn mong manh càng trở nên mong manh khi họ phải một mình chống lại trăm mối đe doạ từ nhiều phía và nguy hiểm nhất vẫn là những người chồng của họ. Trương Sinh chồng của Vũ Nương yêu mến vợ nhưng lại có tính đa nghi hay ghen lại phòng ngừa quá sức. Lẽ dĩ nhiên ta hiểu điều gì xảy ra với Vũ Nương trong đời sống tinh thần của nàng khi luôn phải sống trong sự phòng ngừa quá sức của chồng nặng nề như thế nào. Chắc chắn Vũ Nương cũng chẳng được tự do cười nói, suốt ngày lầm lũi, không giao tiếp với ai. Nhưng việc nàng làm được đáng để cho chúng ta khâm phục: chưa từng để xảy ra nỗi bất hoà: Ở Vũ Nương ta có thể thấy được phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam, đấy là đức tính nhẫn nhịn đến quên mình vì hạnh phúc gia đình, vì người thân mà không màng đến những đau khổ của riêng mình. Rõ ràng nàng phải là người trân trọng hạnh phúc của gia đình mới có thể có những hi sinh đến quên mình ấy. Song hạnh phúc mong manh của nàng chẳng được bao lâu, cuộc đời của Vũ Nương chuyển sang một bước ngoặt khác, khi Trương Sinh bị bắt đi lính. Những tưởng sự việc này xảy ra sẽ là một cách để giải thoát cho Vũ Nương, nhưng hãy chứng kiến cảnh Vũ Nương tiễn chồng đi lính và những lời nói của nàng dành cho người chồng:+ Nàng rót chén rượu tiễn chồng mà rằng: Thiếp chẳng mong được ấn phong hầu, áo bào trở về quê cũ…chỉ mong cho chàng hai chữ bình yên..+ Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa. Nhìn liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình thương người đất thú. Dẫu có thư tín nghìn hàng cũng không mong có cánh hồng bay bổng. Ta thấy rằng: Rõ ràng việc Trương Sinh đi lính là một bất hạnh đối với Vũ Nương, nàng mất đi chỗ dựa tinh thần. Với nàng khát vọng cháy bỏng nhất và cũng là rất đỗi bình dị nhất đấy là sự bình yên cho chồng giữa hòn đạn mũi tên. Bởi vì sự bình yên cho chồng cũng có nghĩa là sự bình yên cho mái ấm gia đình. Nàng yêu chồng mình tha thiết, dám mạnh dạn bày tỏ tấm chân tình của mình với chồng. Những lời nói của nàng với chồng thể hiện nỗi nhớ nhung nghe sao da diết nồng nàn tình phu thê sâu nặng, không mảy may một chút giả tạo gượng ép nào. Những lời nói ấy thực sự ngân lên từ trái tim của người phụ nữ dành chọn tình yêu thương cho chồng, tràn đầy khát khao mong mỏi về hạnh phúc gia đình bình dị. Và để đặc tả nỗi nhớ và tấm chân tình này của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã dùng những hình ảnh của thiên nhiên hoạ lại một cách nồng nàn bao niềm thương nỗi nhớ, bao thổn thức đau đáu của Vũ Nương khi cảm nhận trước được thời gian và không gian phải xa cách chồng như thế nào. Tất cả những cảnh vật hiện ra trước mắt nàng đều làm nàng nhớ đến người chồng của mình. Bao lá thư cũng không thể diễn tả hết được tình cảm của nàng dành cho chồng. Điều ấy, cho ta thấy Trương Sinh có vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc đời của VN, và trong trái tim của nàng.
Tâm hồn trong sáng và tấm chân tình da diết cháy bỏng của VN đã lay động trái tim của những người chứng kiến “ứa hai hàng lệ” cảm thương cho hoàn cảnh của nàng đồng thời trân trọng, cảm phục tấm lòng, tình yêu thương dành cho chồng của nàng một cách tuyệt đối. Lẽ dĩ nhiên cả người đọc chúng ta nữa làm sao không thể không xúc động trước người phụ nức đức hạnh vẹn toàn lại luôn bị chồng phòng ngừa quá sức. Nhưng trước cảnh biệt li vợ chồng VN lại đau khổ da diết nhớ thương. Cũng bởi một lẽ nữa, ta hiểu và đồng cảm với nàng: Tuy lấy TS về đời sống tinh thần không được nhẹ nhàng nhưng sẽ còn bất hạnh hơn nếu như TS tử trận nơi sa trường. Điều ấy, đồng nghĩa với việc cướp đi phũ phàng niềm vui nghi gia, nghi thất nàng luôn khát khao, cướp đi hạnh phúc mỏng manh mà bấy lâu nay một tay nàng gây dựng. Cuộc đời của VN càng gắn chặt với mái ấm gia đình của nàng hơn khi nàng sinh con. VN bây giờ không chỉ ghánh trọng trọng của một người vợ, của người con dâu mà còn là một người mẹ. Nhưng nàng đã làm tròn vai của mình: Một người vợ đảm đang chung thuỷ. Một người mẹ đức hạnh. Một người con dâu thảo hiền. Với người mẹ chồng, Vn đã tạo được mối quan hệ tốt đẹp nặng tình, nặng nghĩa, đã làm được cái điều xưa nay là việc khó của các nàng dâu: Tận tình chăm sóc, lựa lời khéo léo động viên mẹ lúc mẹ ốm đau. Vì thế đã dành được niềm tin yêu của người mẹ chồng. Đặc biệt lúc mẹ chồng trước khi nhắm mắt xuôi tay đã dành cho VN những lời nói đầy niềm tin yêu trân trọng: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ cũng như con đã chẳng phụ mẹ” Có thể nói những lời của người mẹ tựa như vàng ròng. Một thứ vàng tâm được đúc ra từ tấm lòng tràn đầy niềm tin yêu cảm phục người con dâu hiếu thảo, nết na đức hạnh đã dành hết tâm sức cho gia đình. Bà cầu Phật ban phúc đức cho người con dâu của mình. Tin vào lẽ công bằng, tin ông trời thấu hiểu cho tấm lòng hiếu thảo của người con dâu. Điều này, còn cho ta một suy nghĩ đáng để lưu tâm: Dù người mẹ chồng có thế nào đi chăng nữa nhưng nếu người con dâu có đức hạnh thì vẫn có thể hoá giải được mối quan hệ “mẹ chồng nàng dâu” trở nên tốt đẹp. một người như Vũ Nương dung hạnh hơn người lẽ đương nhiên là được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những gì nàng mong muốn khát khao. Song số phận lại đùa cợt với nàng.
Ngày Trương Sinh trở về những tưởng sẽ là những ngày hạnh phúc của Vũ Nương, bao lo lắng, bao nhớ thương, chờ đợi hi vọng của nàng sẽ được đền đáp. Nhưng không ngờ rằng cái ngày mà TS trở về lại là bất hạnh đến với nàng. Ngay từ giây phút đầu tiên TS trở về khi biết được mẹ mình đã mất TS đau lòng liên bế con ra mộ mẹ, mà không đoái hoài đến VN, không hỏi han VN được một câu. Đứng ở vị trí khách quan ta thấy: thực ra TS sau những năm tháng xa nhà vẫn là TS của ngày trước. Chúng ta không thể phủ nhận hoàn toàn TS là kẻ xấu vì ít ra cũng là người có hiếu nhưng thói ích kỉ gia trưởng vẫn còn nguyên vẹn trong con người TS . Thời gian TS vắng nhà cũng là thời gian VN bao nhọc nhằn chăm vén cho gia đình, để đợi ngày TS trở về xây tiếp niềm vui nghi gia nghi thất . Song hành động của TS lại làm cho người đọc chúng ta linh cảm thấy điều gì đó chẳng lành sắp xảy ra với VN . Điều linh cảm của người đọc đã đúng. Điều mà VN từ trước đến nay VN đã cố giữ gìn không cho nó xảy ra đã đến với nàng nhưng chỉ có điều lần này nó kết thúc tất cả những hạnh phúc vốn rất mong manh của nàng. Từ câu nói ngây thơ của đứa trẻ: “Ô hay ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chi nín thin thít…trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. TS vốn hay ghen lại thêm câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã xoáy vào lòng TS vốn đã có tính đa nghi và như dầu đổ vào lửa thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông vốn đã thành máu trong TS. Thế là TS không cần hỏi han cho rõ cơ sự bất chấp những lời giải thích kể cả sự bênh vực lên tiếng của hàng xóm, về nhà đổ cho vợ cái tội tày đình: tội thất tiết lên đầu vợ. Trong xã hội phong kiến xưa kia người phụ nữ mà mắc tội này – cái giá mà họ phải trả có thể là cái chết rất đau đớn vê thể xác lẫn tinh thần.+ Với Vn cũng chỉ vì thương nhớ chồng và thương con không nhận được tình cảm của người cha như bao đứa trẻ khác, nàng cho con hình dung người cha bằng chính cái bóng của mình trên vách mỗi khi trời tối. Nhưng nghiệt ngã thay, oan nghiệt thay cái bóng lại trở thành nỗi oan nghiệt không có cách nào gỡ nổi cho nàng.+ Trước nỗi oan tày đình người chồng đổ lên đầu mình, trước sau vẫn giữ trọn đạo làm vợ, vẫn dùng những lời nhẹ nhàng nói với chồng để cởi bỏ mối nghi ngờ. Nhưng TS vẫn tàn nhẫn, lạnh lùng không những không cho nàng thanh minh mà còn mắng chửi đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Sự ghen tuông mù quáng cùng với sự vô học đã dẫn đến hành động hồ đồ đổ nỗi oan lên đầu vợ, còn cạn tàu dáo máng, bạc tình, bạc nghĩa đánh đuổi VN. Là người phụ nữ giàu lòng tự trọng, biết không thể gỡ nổi nỗi oan, cũng như mong ước giản dị về hạnh phúc gia đình đã bị tan vỡ nàng đã nói lời cuối cùng với chồng:“Nay bình rơi châm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa”.Lần này Nguyễn Dữ cũng dùng những hình ảnh của thiên nhiên để diễn tả tâm trạng nhưng lần này là diễn tả tâm trạng tan nát, từng câu từng chữ như từng giọt máu dứt ra từ trái tim bất hạnh của nàng. Trái tim của nàng như tan vỡ ra từng mảnh theo những đứt gãy, theo tiếng kêu ai oán thảm sầu cuốn vào mây gió, nước thẳm. Thế là hạnh phúc mà nàng chắt chiu từng giọt nay đã bị TS hất xuống đất rồi, không cho nàng có cơ hội xây dựng hạnh phúc mà bấy lâu nay nàng một lòng một dạ vun vén. Nhưng ngay cả trong những lúc như thế này ta vẫn thấy trong cái quằn quại đau đớn VN hiện lên là một người vợ ngoan hiền, tấm lòng đầy khát khao về mái ấm gia đình.VN đã cố gắng hết mình ngay từ khi bước chân về nhà chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng đến bây giờ tất cả đã hoá thành mây gió. Tuyệt vọng và đớn đau, VN đã tìm đến cái chết để thoát khỏi nỗi oan. Đối với nàng, không còn con đường nào khác.Hành động đi đến cái chết của VN là đúng hay sai? Nó chứng tỏ VN là người như thế nào?Xét vào hoàn cảnh của nàng ta thấy: VN ngay từ khi về nhà chồng nàng đã đặt hết tâm sức của mình cho gia đình, vượt qua bao sức ép về tinh thần luôn làm tròn vai của một người vợ, người mẹ, người con dâu hiếu thảo. Hơn ai hết nàng khát khao mái ấm gia đình có niềm vui nghi gia nghi thất và đặc biệt dành được sự trân trọng tin yêu của người mẹ chồng. Kể cả khi bị chồng đổ nỗi oan tày đình, dùng những lời lẽ thoá mạ nàng, VN vẫn trước sau nhẹ nhàng giữ cái đạo làm vợ. Nhưng tất cả đã chấm hết với nàng. Chỗ dựa tinh thần duy nhất của nàng. Người đảm bảo có thể giữ được hạnh phúc cho nàng đã chối bỏ nàng một cách phũ phàng. Vn trở thành người không chốn nương thân. Xét vào hoàn cảnh xã hội khi ấy: Với bao nhiêu lễ giáo phong kiến ngặt nghèo thắt chặt lấy Thân phận người phụ nữ. Một người giàu lòng tự trọng như VN, lại bị chồng ruồng rãy, thử hỏi có thể sống trong xã hội ấy không? Vì vậy quyết định đi đến cái chết của VN là đúng và hoàn toàn có thể thông cảm được. Đồng thời nó chứng tỏ cho bản lĩnh của nàng. VN dám sống và cũng dám chết. Nàng đi đến cái chết một cách rất bình tĩnh, chủ động: Trước khi chết tắm gội chay sạch, kêu với trời đất, kêu với dòng sông giọng điệu rất tỉnh táo, rõ ràng. Nàng thề độc với dòng sông………….Rõ ràng VN là người muốn sống hơn ai hết nhưng nàng phải chết. Quyết định đi đến cái chết của VN là một quyết định dũng cảm. Cảm phục thay tấm lòng trinh bạch của VN. Cảm phục thay ở người phụ nữ vốn rất mực hiền lành dịu dàng, nhẫn nhịn đến quên mình để chăm vén cho gia đình nhưng lại rất cứng cỏi và bản lĩnh khi chẳng còn cách nào khác, sẵn sàng đi đến cái chết để chứng tỏ cho tấm lòng của mình.
Cái chết củaVN trong bi kịch của gia đình mình, là người tố cáo mạnh mẽ với những xấu xa trong XHPK. Ở đó người phụ nữ không có khả năng bảo vệ mình, họ mỏng manh và cô độc trước những độc đoán, gia trưởng của những người chồng. Họ luôn phải sống trong ràng buộc ngặt nghèo, nghiệt ngã của lễ giáo PK. Họ có thể bị đổ oan, bị dồn đến cái chết bởi những lí do vô lí cho dù trước đó họ có tốt đến như thế nào đi chăng nữa.
Cái chết của Vn mãi là hình ảnh ám ảnh và nhắc nhở chúng ta về quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ và yêu thương của những người phụ nữ.Có người nói cái bóng đã gây nên cái chết oan nghiệt cho VN. Nhưng theo tôi không phải thế. Cái bóng được sinh ra từ lòng yêu thương ấy không hề có tội. Mà người có tội chính là TS với thói ích kỉ, ghen tuông mù quáng, thói gia trưởng, nam quyền mà XHPK trao cho những người đàn ông, TS chỉ là một trong cả cái xã hội phong kiến ấy mà thôi. TS không hẳn là kẻ xấu bởi sau cái chết tức tưởi của VN TS đã thức tỉnh, động lòng thương tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Cuộc đời như một trò đùa với TS cũng chính từ lời nói của đứa con, khi cái bóng của lòng yêu thương xuất hiện trong đêm đã thức tỉnh TS, thấu hiểu nỗi oan của vợ nhưng tất cả đã muộn với TS. Sau cái chết của VN câu chuyện có thể kết thúc nhưng tác giả và cả chúng ta nữa mong sao có phép thần tiên cứu sống VN. Song điều ấy chỉ có trong cổ tích mà thôi,có lẽ thấu hiểu được điều ấy của người đọc và chắc chắn cả từ nhưng điều thực hư về nàng nữa trong cuộc đời nên ND đã sáng tạo ra phần đời tiếp theo của nàng dưới thuỷ cung khi nàng được các nàng tiên nữ cảm thương mà rẽ nước cho nàng cho nàng xuống con nguyên lành thể xác, để rồi được giải oan. Nhưng ý nghĩa sâu xa trong phần sáng tạo thêm này của tác giả là gì ?
Có lẽ ý nghĩa đầu tiên mà ta nghĩ đến, đấy chính là một lần nữa hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ vốn tư dung tốt đẹp này: đấy là khi gặp Phan lang người cùng làng qua lời đối thoại của nàng với Phan lang khi nói VN nói về nguyên nhân tại sao lại phải xuống thuỷ cung: “Tôi không may bị người vu oan” chứ không hề oán than, trách móc TS. Điều ấy chứng tỏ Vn trước sau vẫn mãi là người vợ ngoan đạo, mọt lòng một dạ giữ danh dự cho chồng, nghĩ cho chồng. Một phần nàng cũng không muốn nhắc lại nỗi đau, nỗi oan nghiệt của nàng chưa được hoá giải. Nhưng đặc biệt khi Phan lang nhắc đến TS: “ Thế còn tiên nhân ngày đêm mong nhớ nàng thì sao” thì VN ứa hai hàng lệ. Ta có thể cảm nhận được những gì đang diễn ra tâm trạng của Vn: Nhắc đến TS là nhắc đến nỗi oan nghiệt của nàng, và khát vọng được giải oan lại cháy lên trong nàng, cả nỗi nhớ chồng, con, gia đình lại cồn cào thổn thức. Cũng chính vì thế Vn đã đi đến một một quyết định táo bạo: Gửi lời nhắn cùng với đôi hoa tai vàng qua Phan Lang cho TS để lập đàn giải oan cho nàg nếu TS còn nhớ đến tình xưa. Chi tiết này lại cho ta thấy Vn hơn ai hết là người hiểu TS, rõ ràng là có yêu thương thì mới hiểu chồng của mình đến vậy.
Chi tiết VN trở về kì ảo lộng lẫy trên mặt sông trên kiệu hoa theo sau 50 chiếc xe cờ tán võng lọng rợp cả một khúc sông, cùng với lời nói của Vn từ giữa sông vọng vào cho ta những rung động khôn nguôi về VN: Vn vẫn mãi là người vợ ngoan hiền, một mực kính chồng khi nói trong bao tiếc nuối như không thể nào khác được: thiếp đa tạ tình chàng nhưng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Vẫn còn đấy trong câu nói của VN bao diết đầy ân tình như chẳng bao giờ có chuyện TS đối xử tệ bạc với mình. Tấm lòng hỉ xả như Phật Bà, nhưng vẫn nặng ân nghĩa cõi trần tục ấy của VN quả là đáng trân trọng biết bao. Dẫu biết rằng câu chuyện có những nét hư thực, nhưng ta vẫn tin ở đời này có một VN như thế với tên tuổi quê quán rõ ràng - Người con gái Nam Xương.
Những chi tiết kì ảo trong cuộc đời thứ hai của VN dưới thuỷ cung vừa nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ở lẽ công bằng ở điều nhân quả. Nhưng đồng thời cũng làm nổi bật tính bi kịch của câu chuyện: VN tuy được sống nơi sung sướng, nơi không có khổ đau, bất công nhưng tất cả chỉ là ảo ảnh mà thôi vì thế giới tiên cảnh thì làm gì có thực. Vn có trở về rực rỡ đi nữa thì cũng chỉ là ẩn hiện tạ từ rồi biến mất. VN chết thì không bao giờ sống lại được, hạnh phúc không bao giờ có thể tìm lại được cho VN, cũng như nỗi oan gnhiệt của nàng mãi chìm vào sông nước Hoàng Giang. Đó chính là bi kịch. Điều đó cũng nói lên niềm thương cảm sâu sắc và nỗi đớn đau của nhân gian và cũng là của tác giả Nguyễn Dữ với số phận bi thảm, bất hạnh nhưng lại sáng ngời nhân phẩm và đức hạnh của người phụ nữ trong xã phong kiến. Chẳng thế mà suốt năm trăm năm qua nơi chính điện thờ bà vẫn nghi ngút toả khói hương.
Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ với cách kể truyện dung dị cũng với những tình huống chi tiết có kịch tính, kể về thân phận bất hạnh oan nghiệt mà tâm hồn luôn ngời sáng tấm lòng hỷ xả như Phật Bà của VN, có ý nghĩa tố cáo sâu sắc những xấu xa của XHPK mà đại diện ở đây là TS đã đẩy người phụ nữ đức hạnh dung hạnh vẹn toàn đến cái chết oan nghiệt mà chẳng hiểu vì sao. Xét trong xã hội ngày nay, Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ vãn còn có giá trị thời sự to lớn. Nó nhắc nhở chúng ta về quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ của những người phụ nữ.
0
0
(•‿•)
08/06/2019 08:24:09
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm Mang tính chất truyền kì và được tôn vinh là “thiên cổ tùy bút” thì cho đến ngày nay có một “Truyền kì mạn lục” Của Nguyễn Dữ tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Sương” được viết trong tập kì lạ đó.Trong tác phẩm nhân vật chính là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc.
Vũ Nương chính là người đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ta dưới chế độ phong kiến.Nguyễn Dữ chỉ điểm “tư dung tốt đẹp” chỉ bằng chitiết nhỏ đây thôi tác giả đã phần nào khắc họa được hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp.Cũng bởi “ mến vì dung hạnh” nên chàng Trương đã lấy nàng làm vợ.Nhưng chữ dung ấy vẻ đẹp ấy chẳng thể nào tỏa sáng được như vẻ đẹp tâm hồn nàng.
Xuyên suốt tác phẩm là tiếng nói đồng cảm,trân trọng ngợi ca của tác giả đối với người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện là xoay quanh cuộc đời và số phận của người con gái xinh đẹp nết na,những tưởng có một cuộc sống hạnh phúc viên mãn nhưng câu chuyện lại đi hoàn toàn ngược lại.Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một ngươi phụ nữ tốt đẹp thùy mị nết na tư dung tốt đẹp.càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy được vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung để thể hiện rõ nét.
Trương sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng vợ khôn khéo cư xử giữ gìn khuôn phép nên gia đình không lúc nào phải thất hòa.Ngay cả khi tiễn chồng đi lính mong ước lớn nhất của nàng không phải là vinh hoa phú quý mà đó chính là chàng sớm trở về đoàn tụ với gia đình “Mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.Phận làm vợ ai chẳng muốn chồng mình được phong chức tướng áo gấm về làng còn nàng thì lại không. Những ngày chồng đi xa nàng thật sự là một người phụ nữ đôn hậu làm tròn trách nhiệm của một người con dâu hiếu thảo và bổn phận của một ngươi làm mẹ,chăm sóc mẹ chồng ốm đau thuốc thang đến khi mẹ ốm nặng và qua đời ma chay tết lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.
Nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được bị chồng một mực nghi oan Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để giải thích nhưng vì bản chất của chồng nàng là hay ghen lên có nói gì cũng vô ích.Nàng vẫn đoan trang đúng mực chỉ nhẹ nhàng giải thích: “ Thiếp vốn con kẻ khó,được nương tựa nhà giàu.Sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh.Cách liệt ba năm giữ gìn một tiết.Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng.Ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót.Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói.Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.Dẫu bị hiểu lầm nhưng nàng vẫn một mực nhẹ nhàng tử tốn.Và từ những câu nói ấy chúng ta cũng thấy được sự chịu đựng hi sinh của nàng vì chồng vì con vì gia đình.Khi chồng ra trận tất cả mọi việc đều gánh lên đôi vai yếu mềm của người nàng,nàng phải sinh con một mình giữ nỗi cô đơn lạnh lẽo mà đáng lẽ ra việc sinh con phải được chồng ở bên quan tâm chăm sóc,nhưng nàng lại thieeys người chồng thiếu đi sự vỗ về an ủi của người chồng.
Đó chính là một nỗi rất khó khăn đối với nàng nhưng vì chồng vì con nàng vượt qua hết mọi gian nan đó đợi chồng ngày trở về gia đình được đoàn viên nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại với những gì nàng suy nghĩ.Hơn nữa nàng yêu thương mẹ chồng như chính yêu thương mẹ của mình vậy mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều được nàng chu tất.Lời trăn trối của mrj chồng trước khi mất chính là một lời nhận xét đánh giá sự hy sinh cao cả cua nàng vì gia đình chồng “ xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ” tác giả lại một lần nữa nhắc lại “ Anfng hết lời thương xót,phàm làm việc ma chay tế lễ,lo liệu như với cha mẹ đẻ của minhg” như tô đậm thêm tình yêu thương của nàng đối với mẹ chồng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.Nàng gặp bao nhiêu bất hạnh của cuộc đời.Chiến tranh tàn khốc đã khến cho bao gia đình chịu cảnh li tan khiến cho mẹ mất con,vợ mất chồng,con mất cha.Tất cả mọi việc đều trông cậy vào nàng. Và “ khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một cậu con trai đặt tên là Đản” thiếu sự quan tâm chăm sóc của chồng nhưng nàng vẫn nuôi dậy con khôn lớn trưởng thành vừa một mình chăm sóc con nhỏ thuốc thang cho mẹ chồng.Rồi chiến tanh cũng qua cứ ngỡ nàng cũng được cuộc sống hạnh phúc như bai gia đình khác nhưng bi kịch của nàng lại xảy ra đó là những ngày thương nhớ chồng nàng đã âm thầm nuôi con và thương cót con biết bao khi nhìn cảnh con thơ thiếu đi sự chăm sóc của cha thế là nàng chỉ bóng mình trên tường mà nói với con rằng đó là cha của Đản nhưng đâu ngờ đó chính là sự hiểu lầm đối với chồng và là nguyên nhân nàng chết bởi chính cái bóng của mình.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp cua người phụ nữ song nàng lại gặp nhiều bi kịch của cuộc đời ấy chính là bi kịch của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác chế độ của sự lạc hậu khiến cho số phận của người phụ nữ thêm đau khổ.
0
0
Doãn
10/06/2019 09:50:43
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:
"Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng "Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du và "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.
Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam Xương".
Tục ngữ có câu "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.
Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du. Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:
"Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài"
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền: "Trọng nam khinh nữ", người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo "tam tòng", hay các quan niệm lạc hậu như "nữ nhân ngoại tộc"... Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.
Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn rơi rớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.
Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.
Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc.
Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.
Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt - đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.
Viết "Chuyện người con gái Nam Xương" và "Truyện Kiều", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K