Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

​Thuyết minh về núi Tà Cú. Thuyết minh về nước mắm của tỉnh Bình Thuận

1/ ​Thuyết minh về núi Tà Cú
2/ Thuyết minh về nước mắm của tỉnh Bình Thuận
5 trả lời
Hỏi chi tiết
13.340
15
8
Bài 1:
Ngồi ca-bin cáp treo, lướt trên những ngọn cây dong hoa đỏ rực, du khách cảm thấy thật thư giãn và dễ chịu. Sau khi vượt qua đỉnh ngọn núi nhỏ và khu rừng già nguyên sinh, trước mặt du khách là biển Hàm Thuận Nam, bên trái là ngọn hải đăng Kê Gà nổi tiếng có hơn 100 tuổi, hằng ngày vẫn cần mẫn hướng dẫn tàu, thuyền đi lại trên biển ban đêm an toàn. Khu du lịch Núi Tà Cú nằm sát quốc lộ 1A, ở thị trấn Thuận Nam (huyện Hàm Thuận Nam), cách TP Phan Thiết 30km. Khu du lịch rộng hơn 250.000 m2 có rừng, núi và biển với quần thể sinh thái phong phú. Vừa qua hệ thống cáp treo hiện đại đã được lắp đặt tại đây. Tuyến cáp dài 1.600m, cao 505m với 35 ca-bin đóng mở tự động có thể phục vụ 1.000 khách/giờ. Có hai nhà ga: nhà ga cáp dưới, nhà ga cáp trên, một quảng trường và những khu phụ trợ rộng rãi, khang trang cùng lúc có thể phục vụ hàng nghìn khách du lịch... Kiến trúc toàn bộ khu du lịch cáp treo Núi Tà Cú hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Ði cáp treo, du khách được hòa mình cùng thiên nhiên, hương rừng, gió biển và ngắm nhìn những cánh rừng và đồng lúa. Ngồi ca-bin cáp treo, lướt trên những ngọn cây dong hoa đỏ rực, du khách cảm thấy thật thư giãn và dễ chịu. Sau khi vượt qua đỉnh ngọn
núi nhỏ và khu rừng già nguyên sinh, trước mặt du khách là biển Hàm Thuận Nam, bên trái là ngọn hải đăng Kê Gà nổi tiếng có hơn 100 tuổi, hằng ngày vẫn cần mẫn hướng dẫn tàu, thuyền đi lại trên biển ban đêm an toàn. Xuống nhà ga trên, không khí mát hẳn. Theo con đường mòn độ vài trăm mét, khách tham quan sẽ nhìn thấy một quần thể: chùa, tháp, tượng Phật và hang động. Ðáng lưu ý nhất là di tích "Song Lâm Thị Tịch" với tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn lớn nhất Ðông Nam Á, dài 49m, cao 11m và nhóm Tam Thế Phật đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Leo lên hàng trăm bậc đá, vãn cảnh chùa, thăm hang động, du khách còn thấy những giò lan rừng nở đầy hoa, thơm ngát, vắt vẻo trên những cây dầu, cây bằng lăng... trong rừng nguyên sinh. Khuôn viên nhà chùa trên núi vừa rộng, vừa mát có nhiều ghế đá, ghế gỗ là nơi ngồi để tận hưởng ngọn gió trong lành từ biển. Khách có thể rửa mặt từ những vòi nước trong vắt, mát rượi từ núi chảy ra và nghỉ ngơi ở đây. Khi theo cáp treo đi xuống cũng rất thú vị. Từ trên cao, khách thấy những vườn thanh long thẳng hàng, xanh rì, dưới xa là những làng xóm mái ngói đỏ tươi. Nhìn toàn cảnh khu du lịch, khách sẽ ngạc nhiên và thú vị được chiêm ngưỡng ý tưởng độc đáo của các nhà kiến trúc khi xây dựng nơi đây như một tác phẩm nghệ thuật mang hình cây đàn nhị và cây đàn ghi-ta khổng lồ nối với nhau bằng một chiếc cầu xinh xắn. Khi du khách đi vào, xe điện êm ru chạy vòng theo nửa của hai cây đàn, lúc ra đi theo nửa còn lại. Cái cổng lợp ngói âm dương kiểu cổ là nơi đón và tiễn chân du khách, tạm khép lại một chuyến tham quan thú vị. Anh Vũ Đức Phương, Phó Giám đốc khu du lịch Tà Cú cho biết, khu du lịch Núi Tà Cú chính thức được đưa vào sử dụng, khai thác từ giữa tháng 9/2003. Chỉ mới nửa năm mà nơi đây đã được đông đảo khách du lịch trong, ngoài nước biết đến. Ðến nay, đã có gần 200 nghìn lượt khách tham quan, doanh thu đạt 7,5 tỷ đồng. Riêng quý 1/2004, có hơn 85.000 khách, doanh thu đạt 4,6 tỷ đồng, đóng góp vào ngân sách nhà nước 750 triệu đồng, tạo việc làm ổn định cho 105 cán bộ, công nhân viên với thu nhập 700-800 nghìn đồng/người/tháng. Khu du lịch sinh thái Núi Tà Cú phát triển đã thúc đẩy các mặt kinh tế - xã hội khu vực thị trấn Thuận Nam phát triển, biến nơi đây trở thành điểm đến lý tưởng của du khách.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
25
9
mỹ hoa
18/01/2018 16:56:48
bài 1:
Người dân Phan Thiết thường giới thiệu về quê hương của mình bằng 2 câu thơ:
"Quê tôi nằm giữa hai TÀ
Nam thì TÀ CÚ, Bắc thì TÀ ZÔN"
Bên phải chúng ta là dãy núi TÀ CÚ năm ở phía Nam thành phố Phan Thiết.
- Cao 649 m, nằm ven Quốc lộ 1A, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam là một thắng cảnh kỳ thú và là một điểm leo núi hấp dẫn của tỉnh Bình Thuận.
Quanh năm không khí ở Tà Cú trong lành, mát mẻ. Nhiệt độ trung bình từ 18 đến 22°C. Xưa kia đây là một ngọn núi lửa thuộc đệ nhất nguyên đại nên trong đất có vàng sa khoáng và sulfur, trong nước suối có hoạt chất của các loại rễ cây thuốc như ngũ gia bì, thần xạ, đỗ trọng bắc... rất tốt cho những người bệnh gan hoặc bệnh ngoài da.
- Để lên tới đỉnh ngọn núi nằm trong khu rừng cấm, du khách có thể cần 2 giờ để vượt qua 2.290 m đường dốc cheo leo, khúc khuỷu với những bậc đá có từ vài chục năm trước. Dọc ngang lối đi vô số những thân, rễ cây bò xuôi ngược. Bằng Lăng là đoạn dốc cao nhất, nghiêng 45°. Du khách sẽ rất vất vả để leo qua đoạn đường này, nhưng bù lại có thể ngắm nhìn những thân bằng lăng cổ thụ rải đầy hoa tím lẫn với một loài hoa cánh trắng, trôi dạt trên dòng nước chảy men theo sườn núi. Cách đỉnh 1.250 m, đường đi đã dễ dàng hơn. Lúc này du khách có thể chiêm ngưỡng trời xanh thoắt ẩn thoắt hiện qua tán rừng và thung lũng mờ ảo bên dưới. Tà Cú có phong cảnh hữu tình với những phiến đã muôn hình vạn trạng, những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi cùng khí hậu trong lành, thanh tịnh. Hoặc du khách có thể ngồi 10 phút trong cabin "bay" theo đoạn dây cáp dài 1.600 m ở độ cao 500m, ngắm nhìn khu rừng xanh bao la.
- Nằm ở độ cao 563 m (chưa tới đỉnh) là hai ngôi chùa: Chùa Trên (Linh Sơn Trường Thọ) và chùa Dưới (Long Đoàn), cùng bậc thang đá cao và những ngọn tháp. Ở đây có bức tượng Phật Thích Ca nằm, làm bằng bê tông, quét vôi trắng dài 49 m nằm giữa bốn bề là núi non trùng điệp, xa xa là biển xanh. Đây là bức tượng lớn nhất Đông Nam Á, lớn hơn tượng Phật nằm, dài 45 m trong chùa Wat Po ở Bangkok.
- Khi đã đứng trên đỉnh núi, du khách có thể thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên xung quanh đẹp như một bức tranh thủy mặc. Phía xa là bờ biển Hàm Tân trãi dài với một màu xanh biên biếc, những cây cổ thụ đứng trầm lặng dưới những áng mây. Ở trên cao, về phía Quốc lộ 1A, nhà cửa, ruộng vườn đan xen nhau thành từng vuông vức. Ngay từ 5 giờ chiều sương mù đã bắt đầu bảng lảng khắp thung lũng. Đêm xuống, những tảng sương dày đặc, bao phủ khắp núi rừng.
- Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Ông đã từng tu hành và góp nhiều công sức chăm lo Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận như chùa Cổ Thạch, Linh Sơn (Tuy Phong), Phước Hưng (Phan Thiết) và một số chùa ở đảo Phú Quý. Năm 1872 nhà sư lên núi Tà Cú tu hành trong một hang đá (sau này gọi là hang Tổ). Cho đến lúc mất, sư Hữu Đức không xuống núi nữa. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn và chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên.
- Phía trên chùa, cách hang Tổ khoảng 50 m là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài 49 m, cao 7 m là pho tượng Phật nằm lớn nhất Đông Nam Á. Tác phẩm do ông Trương Định Ý chủ trì, được đúc bằng bê tông cốt thép trong đợt trùng tu năm 1963. Cách pho tượng khoảng 50 m về phía dưới là nhóm tượng Di đà Tam tôn xếp thành hàng ngang, xây trên đài sen: tượng A Di Đà ở giữa cao 7 m, bên trái là tượng Quán Thế Âm và bên phải tượng Đại Thế Chí đều cao 6,5 m. Tháp mộ của Tổ và của các nhà sư trụ trì đã qua đời được chia thành hai cụm ở trước điện thờ và sau điện thờ. Tháp Tổ nằm trước điện thờ, bên cạnh có mộ con cọp tương truyền là đã được sư Hữu Đức thuần hóa.
15
1
Bạch Ca
18/01/2018 18:06:57
Bài 2
Nếu ai đã một lần đến Bình Thuận, không thể không nhớ hương vị mặn nồng, thơm tho của nước mắm Phan Thiết.
Nghề làm nước mắm có từ xa xưa, thành một nghề truyền thống của Bình Thuận. Nói đến nước mắm Bình Thuận, không những người trong nước mà cả nước ngoài cũng biết hương vị đặc biệt thơm ngon đậm đà của nó trong mỗi bữa ăn hàng ngày. Nhờ kỹ nghệ làm nước mắm phát đạt mà đời sống ngư dân Bình Thuận no đủ. Một nghề không cần có máy móc gì nhưng đòi hỏi phải nhiều kinh nghiệm mới sản xuất được nước mắm thơm ngon.
Nguyên liệu để làm nước mắm là những con cá cơm, cá nục nhỏ nhắn, tươi nguyên, những người làm nước mắm đã ủ mắm trong lu khạp và đem phơi ngoài trời. Có lẽ nhờ cái nắng gió của xứ này đã mang lại hương vị thơm ngon đậm đà của nước mắm Phan Thiết nổi danh cả trăm năm nay.
Nước mắm Phan Thiết chủ yếu được làm từ cá cơm. Có nhiều loại cá cơm như cá cơm sọc tiêu, cơm than, cơm đỏ, sọc phấn, phấn chì, cơm lép... nhưng ngon nhất là cá cơm than và sọc tiêu. Cá cơm, xuất hiện từ tháng tư cho đến tháng tám âm lịch, là loại cá nhỏ, con to chỉ bằng ngón tay út hay bằng chiếc đũa nhưng phân rã thành mắm nhanh, nên thời gian thành nước mắm cũng ngắn. Tuy nhiên, nhiều nhà làm nước mắm lâu năm cho biết chất lượng còn phụ thuộc vào thời gian đánh bắt cá, nhất là cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước mắm mới ngon và đạt độ đạm cao nhất.
Dụng cụ sản xuất nước mắm rất đơn giản. Người ta dùng 3 loại thùng gỗ: thùng trổ, thùng phơi, thùng chứa. Các loại thùng này có kích thước khác nhau. Thùng nhỏ hơn gọi là thùng ba có sức chứa khoảng 4 tấn cá, thùng lớn hơn gọi là thùng tư có sức chứa từ 5 – 6 tấn cá, đường kính thùng khoảng 2,5m, chiều cao từ 2,5 – 3 m. Thùng muối cá, xuống ngang mặt đáy thùng có một lỗ lù để rút nước mắm.
Trước khi muối cá phải dọn thùng thật sạch, để khô ráo, lấy vỏ ốc, vỏ ken ken hay đá bạc để phía trong lỗ lù, đặt lên trên một chổi dành dành hình quạt, đắp sau là một lớp trấu đựng trong bao tải; sau cùng đắp một lớp muối hạt lên trên. Công việc này gọi là đắp lù.
Nước mắm có thể phân loại thành: “nước bổi”, “nước đục” và “nước nhỉ”. Nước bổi là nước muối, rửa cá lúc cá còn tươi. Nước đục là nước bổi đã đi qua lớp cá đã muối, màu nước đục nhưng vị đã ngon. Nước ép, hay nước nhỉ, là nước đục đưa vào thùng mắm cái, đóng lù lại vài ba hôm rồi cho mắm rỉ ra từng giọt, phải mất mươi hôm mới lấy hết nước.
Cá mua về, tùy theo loại cá, có loại muối cá tươi, có loại phải để ươn mới muối cho nước mắm thơm ngon. Tùy loại cá mà cho muối nhiều hay ít, thông thường 3 phần cá, 1 phần muối. Sau khi muối cá, đế ít nhất 3 ngày, mới rút lù, tháo nước. Nước này gọi là nước bổi. Lấy nước bổi ra, người ta trải lên mặt cá một lớp lá dừa, bên trên là một tấm vỉ tre có hai cây đòn buộc lại cùng đáy thùng cho thật chặt. Cá muối bị ép xuống, nước bổi chảy xuống lỗ trổ phía dưới. Khi thùng hứng đầy, người ta lại múc nước bổi đổ lên thùng cá, mỗi ngày ít nhất 2 lần. Chờ cá chín và thấm muối, thời gian này lâu hay mau còn tùy theo loại cá.
Khi cá đã đến kỳ chín, người ta rút lù cho nước mắm chảy ra với một lỗ nhỏ, chỉ bằng chiếc đũa. Hứng dưới là một thùng trổ. Thùng đầy, múc đổ lên lại nhiều lần cho đến khi nước mắm chảy ra trong và “cẩn” (không vẩn đục) là có thể dùng được. Nước này gọi là nước mắm nhất.
Một thùng cá 4 tấn cho trung bình 800 – 1.000 lít nước mắm này, sau khi lấy hết nước mắm nhất, lại qua một quá trình kéo nước long (đổ nước bổi vào thùng cá muối) để lấy nước nước mắm trong cá đã muối. Rút nước trong lần đầu gọi là long 1, rồi đổ nước long vào, rút nước long ra, cứ thế kéo đến lần thứ 4 gọi là long tư. Lần này nếu nước bổi không đủ, thì người ta cho một lượng muối đổ vào thùng chứa, pha trộn để chế biến thành một loại nước mắm ăn 110 đạm.
Một thùng cá chượp 4 tấn có thể cho trung bình khoảng 2.500 lít; nếu cho ra loại đạm cao thì lượng nước mắm sẽ ít đi. Mỗi lần rút, độ đạm càng giảm, nên để có sản phẩm có độ đạm đồng nhất bán ra thị trường, người ta phải đấu trộn các loại nước mắm có độ đạm khác nhau. Nước mắm lấy được cho vào thùng chứa để phân chất. Sau đó cho vào tĩn, chai, thùng để tiêu thụ.
Thời kỳ vàng son của nước mắm Phan Thiết không phải đóng chai như bây giờ mà được vô trong những cái tĩn hình bánh ú. Thoạt đầu, tĩn có dung tích từ 2,7 - 4 lít. Về sau cánh thợ lò thống nhất nung tĩn có dung tích 3,5 lít.
Theo các cụ già lớn tuổi thì nước mắm vô tĩn hợp vệ sinh, hương vị và màu sắc được giữ nguyên vẹn ở bất kỳ thời tiết nào. Nước mắm vô tĩn để càng lâu lại càng ngon. Nước mắm tĩn được chất lên những chiếc ghe bầu theo cánh thương lái vào Nam ra Bắc với nhiều thương hiệu khác nhau, tạo nên danh tiếng của nước mắm Phan Thiết.
Người ta đánh giá chất lượng nước mắm bằng cách ngửi, nếm hay ăn thử. Khác biệt chung nhất, dễ nhận thấy nhất của nước mắm Phan Thiết so với nước mắm Phú Quốc và các vùng khác là màu vàng rơm (nếu nguyên liệu là cá cơm) hay màu nâu nhạt (cá nục), trong sánh, có mùi thơm nồng và vị ngọt đậm do đạm cao.
Khác biệt đó của nước mắm Phan Thiết được giải thích vì quá trình ủ chượp dưới trời nắng và gió - nhiệt độ trung bình cao, độ ẩm thấp tác động tích cực đến cơ chế lên men - điều mà khó có địa phương nào được ưu đãi như vùng cực Nam Trung bộ.
Nghề làm nước mắm ở Bình Thuận là một nghề truyền thống, có kỹ thuật riêng đặc biệt mà không phải nơi nào cũng sản xuất được, và đã từ lâu, nước mắm Bình Thuận được sếp loại nhất nhì trong cả nước về chất lượng. Người Việt không thể nào thiếu nước mắm trong bữa ăn hàng ngày.
Tại Phan Thiết hiện nay có những khu vực sản xuất nước mắm nổi tiếng như: Thanh Hải, Hàm Tiến, Mũi Né. Ngoài nước mắm, các loại mắm nêm, mắm tôm, mắm ruốc cũng không kém phần thơm ngon, mặn mà của vùng biển Phan Thiết – Bình Thuận.
Nước mắm và nghề làm nước mắm gắn bó với người dân Phan Thiết từ những ngày đầu lập địa và đến tận bây giờ nó vẫn là một trong những nghề thủ công lâu đời nhất tại đây. Phổ biến đến độ, bạn có thể dễ dàng bắt gặp những sân mắm, những thùng lều cao nghều trải dài… cảm nhận vị mặn chát của muối, hương đặc trưng của cá, mắm khi vừa bước đến ngưỡng cửa Phan Thiết, đặc biệt là những ngày mùa.
Sau mỗi chuyến ghé thăm Phan Thiết, những chai nước mắm sóng sánh, thơm nức là món quà không thể thiếu mà bạn bè gần xa mang về. Tuy vậy, có một điều mà không phải du khách nào cũng biết đó là sẽ rất thú vị nếu bạn dành ít thời gian để tận mắt chứng kiến những sân mắm trải dài miên man, được quan sát, nghe lý giải về quy trình làm mắm và đương nhiên là nếm “tận gốc” hương vị ngon tuyệt.
Mách nhỏ với bạn là người dân địa phương vô cùng thân thiện và hiếu khách vì vậy ngoài những xưởng sản xuất nước mắm được quy hoạch bài bản như Con cá vàng, Hiệp Thành,Minh Hoa, Yến Nhi… bạn đừng ngần ngại nếu muốn vào thăm sân mắm của các cơ sở sản xuất tư nhân, hay nhà dân.
10
1
Quỳnh Anh Đỗ
18/01/2018 19:37:31
Chùa núi Tà Cú ngụ trên đỉnh núi Tà Cú với cảnh sắc thiên nhiên,núi rừng hùng vỹ, bao la trầm mặc.Chùa Núi Tà Cú được lập dựng vào khoảng năm 1878-1880. Sư Tổ Trần Hữu Đức, húy hiệu Thông Ân, người ở xã An Dân,huyện Tuy An, Phú Yên, là người nuôi chí thoát trần, đến thiền tu ở hang động trên ngọn núi cao 694 mét này. Sư Tổ thiền tu, bốc thốc chữa bệnh cứu người. Non cao nơi đại ngàn Tà Cú thật là hùng vĩ, thơ mộng giữa rừng cây cồ thụ đại ngàn, xanh thẵm, quanh năm bốn mùa sương phủ. Nhiệt độ ở đây trong lành mát mẻ, từ 16-20 độ C. Với da dạng cảnh sắc thiên nhiên phong phú, động thực vật quý hiếm.
Chùa Núi Tà Cú, bức tranh tuyệt đẹp của núi rừng, Khu bảo tồn thiên nhiên ở Hàm Thuận Nam. Đến Tà Cú là đến với thế giới cõi phập trầm mặc, từ bi, đức độ, ưu ái trần gian. Với vị thế yên tĩnh, Chùa Núi Tà Cú ẩn mình trong rừng cây trùng điệp, mặt chùa hướng ra biển đông, không gian khoảng đảng, thanh tĩnh. Ngôi Chùa cổ này, hoà quyện vào cảnh sắc thiên nhiên, nơi lâm sơn, thị tịch. Bên tả, hữu của chùa là hai dòng suối nhỏ uốn quanh, nước trong vắt, chảy ra từ lòng núi, mang hương vị ngọt mát, của hương sắc núi rừng.
Tương truyền, thửa xưa, nơi Sư Tổ thiền tu là một hang sâu thăm thẵm, có nhiều mỏm đá hoa cương tuyệt đẹp, hang động trên đại ngàn có ngõ ngách, thông ra biển Kê Gà. Hang Tổ huyền bí trên núi ngàn Tà Cú, vẫn còn bí ẩn hàng trăm năm nay chưa được khám phá.
Phong cảnh “song lâm thị tịch, tịnh độ nhân gian” của ngôi chùa cổ Linh Sơn Trường Thọ là cảnh sắc độc đáo ở vùng non cao thăm thẵm. Giỗ Tổ khai sơn ở chùa, hàng năm được tổ chức vào ngày 5 tháng 10 âm lịch, để ghi nhớ công lao lập dựng ngôi chùa cổ này của Sư Tổ trên vùng núi cao, địa linh nhân kiệt.
Huyền thoại về Sư Tổ khai sơn xa xưa là người thiên tu huyền bí, quanh năm Ngài chỉ ăn hoa quả, hương hoa cây rừng, để tu hành nơi chốn cõi Phật. Sư Tổ từ bi đức độ, có tài bốc thưốc chữa bệnh, cứu người bằng lá cây rừng trên núi cao Tà Cú. Tương truyền niên hiệu Tự Đức thứ 33, vào khoảng năm 1848-1883, Hoàng Thái Hậu, tức bà Từ Cung, mẹ Vua Tự Đức, tại cung đình Huế lâm bệnh nặng, Vua ra chiếu cho quân thần và ban dân trong nước, nếu ai chữa trị thuốc thang, cứu được Hoàng Thái Hậu thì sẽ được Triều Đình trọng thưởng. Sư Tổ Trần Hữu Đức bèn cho các vị sư, mang linh dược quý về chuẩn y, “cảm ứng đạo giao nang tư nghì”, cho Hoàng Thái Hậu uống. Được uống thuốc của Sư Tổ chữa trị bà khỏe hẳn. Vua Tự Đức ghi ơn, ân tứ cho Sư Tổ bằng việc ban tặng cho ngôi chùa cổ trên núi Tà Cú bằng cái tên quý giá “Linh Sơn Trường Thọ”. Ngôi Chùa cổ độc đáo này được mang tên linh thiêng của Vua ban từ đó.
Chùa Linh Sơn Trường Thọ xây dựng theo lối kiến trúc cổ của Phật giáo phương Đông, chùa cổ có nhiều cột, kèo, xuyên, trếng, được chạm trồ hoạ tiết tứ linh, “long, lân, quy, phượng” mái chùa lợp ngói âm dương, theo bảy góc uốm lượn hình rồng. Thề hiện sự thanh thoát trần gian, an hoà trong thế gian trầm mặc. Bằng kỹ xão điêu luỵện, bàn tay khéo léo của nghệ nhân cổ xưa, đã kiến tạo, ngôi chùa cổ Linh Sơn Trường Thọ, là kiệt tác về kiến trúc cổ độc đáo của Phật giáo còn lưu lại đến ngày nay.
Đặc biệt, nét độc đáo nhất của ngôi chùa cổ này là pho tựơng Thích Ca Mô Ni nhập niết bàn, nằm nghiêng, gối đầu lên tay, dài 49 mét, cao 11 mét, lưng tựa vào vách núi, mặt hướng ra biển đông, được xây dựng vào những năm 1960, thế kỹ XX, do kiến trúc sư Dương Đình ý, (người Việt Nam) kiến tạo.
Thích Nữ Ba La – Trụ trì Chùa Linh Sơn Trường Thọ cho biết: “Tựợng phật, là công trình kiến trúc đồ sộ, bao dung, nơi chốn sơn lâm tịnh mịch, an tư. Tượng trưng đủ hình tứ lục và bảy chúng Phật tử theo triết lý đạo Phật. Tượng Thích Ca nhập niết bàn dài 49 mét, ở chốn sơn lâm, tĩnh mịch, hoà quyện vào cảnh sắc thiên an hoà, là tâm linh của Phật giáo, luôn tĩnh tâm, hướng thiện”...
Vào những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX, bằng nhiều công sức lao động, sáng tạo của dân chúng Phật tử. Họ vận chuyển thủ công bằng khuân vác, quang gánh, kéo dây để đưa hàng trăm tấn cát, xi năng, sắt thép, lên đỉnh núi cao Tà Cú, hoà trộn với đá hoa cương trên núi để sáng tạo nên công trình nghệ thuật tuyệt trần, tượng Phật Thích Ca Mô Ni nhập niết bàn, mang đậm bản sắc văn hoá, kiến trúc xây dựng của Phật giáo còn lưu lại cho muôn đời sau.
Anh Uzo igo - Du khách Nga nói: “Cảm nhận của tôi về tượng phận dài 49 mét này rất ấn tượng và độc đáo; bề thế về hình dạng và kiến trúc.Thể hiện bàn tay và khối óc của người Việt Nam đối với tâm linh Phật giáo”...
Thắng cảnh Chùa Linh Sơn Trường Thọ còn nổi tiếng với cụm tượng Tam Thế Phật độc đáo theo lối kiến trúc kỹ xảo, nằm phía dưới, cách tượng Phập Bà 100 mét. Đó là pho tượng A-Di-Đà cao 7 mét, độ lượng bao dung, ưu ái trần gian; tượng Quan Âm và Thế Chí cao 6 mét được kiến tạo bằng chất liệu đá hoa cương và xi măng bê tông, nổi bật lên những đường nét kiến trúc tinh xão, trên một nền trắng tinh khiết, giữa phong cảnh núi rừng, xanh ngắt, trùng điệp đại ngàn. Quan Âm, Thế Chí là biểu tượng của lòng từ bi, đưa tâm linh con người hướng thiện,cầu siêu cho con người trần ai, đau khổ về thế giới hạnh phúc, an lành.
Để bảo tồn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, cổ kính của Chùa Núi Tà Cú và di sản lịch sử-văn hoá quý giá này, hiện nay Chùa Linh Sơn Trường Thọ được Sư Thích Nữ Ba La, trụ trì trùng tu, xây dựng lại theo hướng bảo tồn tái tạo vóc dáng, đường nét độc đáo của ngôi chùa cổ ngày xưa. Chùa có dáng vẻ uy nghi hơn song vẫn bảo tồn được những vẻ đẹp cổ kính của nét son Linh Sơn Trường Thọ Tự ban đầu. Phần chánh điện,tháp sen, mái chùa, nơi tôn thờ Phật Tổ, cầu kinh, niệm phật được xây dựng lại theo lối kiến trúc cổ, chạm trổ hình rồng “tứ linh” tạo thêm vẻ tôn nghiêm cổ kính. Những nghệ nhân khéo léo từ Huế vào thi công, xây dựng.
Đặc biệt hiện nay Chùa Linh Sơn Trương Thọ có thêm nét mới là những pho tượng Phật Tổ Thích Ca, tượng Sư Tổ, các vị tăng ni được tái tạo lại bằng những tuyệt tác điêu khắc bằng đá hoa cương trên núi Tà Cú. Những tảng đá hoa cương tuyệt đẹp trên núi ngàn, được bàn tay khéo léo của nghệ nhân từ Hội An, đến đây phục chế. Chùa Núi Tà Cú.
6
1
Quỳnh Anh Đỗ
18/01/2018 19:43:22
Trên mâm cơm của các gia đình người Việt hay trong các nhà hàng , quán ăn ở Việt Nam bao giờ cũng có chén nước mắm.
Đã có những thương hiệu nước mắm nổi tiếng như : nước mắm Nha Trang, nước mắm Phú Quốc….nhưng ai đã 1 lần đến Bình Thuận, không thể không nhớ hương vị nồng nàn , thơm tho của nước mắm Phan Thiết.
Sử dụng nguyên liệu là những con cá cơm nhỏ nhắn, tươi nguyên, những người làm nước mắm đã ủ mắm trong lu khạp và đem phơi ở ngoài trời. Có lẻ nhờ cái nắng , cái gió của xứ này đã mang lại hương vị thơm ngon đậm đà của nước mắm Phan Thiết nổi danh cả trăm năm nay .
Nghề sản xuất, chế biến nước mắm tại Phan Thiết đã hình thành cách đây hơn 200 năm. Vào cuối thế kỷ 17, đạo quân do Nguyễn Hữu Cảnh tiến sâu vào đất Phương Nam, nhiều ngư dân ở các tỉnh miệt ngoài gồm Nam, Ngãi, Bình, Phú (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) đã kéo cả gia đình vượt biển lần lượt đổ bộ lên vùng đất mới Phan Thiết, mong tìm kiếm chốn an cư lạc nghiệp.
Với trí thuận lợi cho nghề cá, Phan Thiết đã thu hút đông đảo ngư dân đến đây để làm nghề biển. Mới đầu họ đến dựng lều tạm, lều chòi làm ăn sinh sống dọc theo sông, bãi biển.
Về sau, ăn nên làm ra họ xây dựng nhà cửa kiên cố và cùng nhau góp vốn xây Dinh, Vạn, Lăng (một kiến trúc dân gian thờ thần cá voi). Đình làng Vạn Thuỷ Tú ở Phường Đức Thắng được lập vào năm 1762 là ngôi Vạn có niên hiệu sớm nhất ở Phan Thiết, chứng tỏ ngư dân từ các nơi đến Phan Thiết làm nghề biển sớm hơn một số nơi khác.
Ban đầu, do ngư dân đánh bắt cá nhiều không tiêu thụ hết nên chuyển qua muối cá để bảo quản, sau đó họ nghiên cứu, sáng tạo ra phương pháp kéo rút sống lấy nước mắm từ thô sơ đến hoàn chỉnh.
Qua đó, cho thấy nghề sản xuất nước mắm ờ Phan Thiết hình thành cùng lúc với nghề đánh cá. Lúc đầu các ngư dân chủ yếu dùng chum, vại, mái để muối chượp sau đó dùng thùng gỗ có sức chứa lớn.
Nghề nước mắm Phan Thiết phát triển nhất là từ khi làm được các thùng gỗ lớn có sức chứa từ 5-10 tấn cá.
Theo “Địa chí Bình Thuận” từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1930, nghề sản xuất nước mắm đã sớm trở thành một ngành công nghiệp độc đáo so với cả nước vừa là công nghiệp độc nhất trong nền kinh tế địa phương.
Năm 1904, Công sứ Pháp ở Bình Thuận đã đánh giá Phan Thiết là một trung tâm quan trọng nhất của Trung Kỳ về khuếch trương thương mại và công nghiệp chế biến nước mắm.
Tổ chức sản xuất nước mắm có quy mô lớn đầu tiên tại Phan Thiết là Liên Thành Thương Quán (sau là công ty Liên Thành) do các nhà nho yêu nước trong phong trào Duy Tân sáng lập từ năm 1906 hướng theo mục đích kinh doanh chấn hưng kinh tế, phát triển nhiều cơ sở sản xuất nước mắm và tập hợp một số hội viên cổ đông là Tư sản, Hàm hộ Phú Hải, Phan Thiết.
Phương pháp chế biến nước mắm theo phương pháp cổ truyền là phương pháp gài nén, dụng cụ chủ yếu là thùng gỗ (bằng lăng...) và mái vú (bằng sành), cá được náo đảo liên tục đến khi chượp (tức là muối) chín tiến hành kéo rút liên hoàn.
- Ướp cá : Cá sau khi đánh bắt được đưa vào bờ, đào trộn muối và đưa vào thùng chứa ngay trong ngày và để ổn định trong suốt quá trình chượp, mỗi thùng chứa ướp 3 lần cá trộn với 1 lần muối. Tổng lượng muối so với cá khoảng 30-35%.
- Cho cá lần thứ nhất: sau khi đắp lù, cho một lớp muối ở dưới, cứ xếp một lớp cá rồi rãi một lớp muối, lần lượt hoặc trộn đều cá với muối ở ngoài rồi cho vào thùng hoặc mái khi nào đầy vun mới thôi. Đậy kín vật chứa hoặc phủ lớp muối mặt để tránh ruồi nhặng
- Cho cá lần 2: sau 2-6 ngày rút kiệt nước bồi, cá hạ xuống tiếp tục cho thêm cá và muối giống cách trên cho đến lúc đầy vun ngọn rồi nén chặt và rút nước bổi thừa ra. Nước bồi thừa nhập chung nước bồi lần 1 rồi để riêng một chỗ. Bên trên phủ một lớp muối mặt.
- Cho cá lần 3: trước khi cho cá và muối phải rút hết nước bổi trong thùng và thực hiện như các lần trước.
- Tiến hành gài nén.
Nước mắm Phan Thiết được sản xuất từ các loại cá nổi, đặc biệt là hai loại cá cơm trắng, cá cơm than và cá nục.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k