Khái quát nội dung, xác định phép liệt kê trong các doạn văn sau và cho biết tác dụng của nóBài tập 3: Khái quát noi dung, xác định phép liệt kê trong các doạn văn sau và cho biết tác dụng của nó. a. Dân phu kế hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gin, kẻ thi thuống, người thi cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cào, bi bom duoi bun lấy ngập quá khuyu chân, ngườn nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tinh cảnh trông thật là thảm. Tuy trống đánh liên thanh, ốc thoi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt là cà rồi. Ay vậy mà trên trời thời mua vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi, sức người khó địch nổi với sức trời! The de không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc để này hỏng mất." b. Trong đình đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chêm chệ ngồi. Tay trái dựa gỗi xép, chân phải duôi thăng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lê đứng bên, cảm cái quat lông chốc chốc lại phe phấy. Tên nữa đứng khoanh tay chực hầu dieu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yên hấp đường phèn, để trong khay khảm khói bay nghi ngút, tráp đoi mồi chữ nhật đè mo, trong ngăn bạc đây những trâu vàng, cau đậu, rê tía , hai bên nào ông thuốc bạc, nào đông ho vàng. nào chuôi dao ngà, nào ông vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thich mặt. Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu gian, thi có thầy dề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cũng ngồi hầu bài c. Ngoài kia, tuy mưa gió âm âm, dân phu rồi rít nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, trang nghiêm lăm: trừ quan phụ mâu ra, mọi ngưoi không ai dám to tieng. So với cái cảnh trăm họ dang vất vả lầm láp, gội gió tăm mưa, như đàn sâu lũ kiên ở trên de, thời ở trong đinh ràt là nhàn nhà, đường bệ, nguy nga: nào quan ngôi trên, nào nha ngôi dưới, ngưrời nhà linh lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm như thần như thánh. d. Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lue cẩy cày, gặt háí, trồng cây, chăn tăm. Mỗi câu hò Huê dù ngăn hay dài dều duoc gửi gam it ra một y tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương duoc dùng nhuân nhuyên và phổ bien, nhất là trong các câu hò doi dáp trì thức, ngôn ngữ dưoc thế hiện thật tài ba, phong phú. Chèo can, bài thai, hò dua linh buon bã, ho giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chỏi, bài tiem, nàng vung náo nức nông hậu tình ngưoi. Hò lo, hò ô, xay lúa, hò nện gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Hue the hiện lòng khao khát, nỗi hoài vọng thiết tha của tâm hôn Huê. Ngoài ra còn có các dieu lí như: li con sáo, ly hoài xuần, li hoài nam. mong cho e. Đêm. Thành phố lên dèn như sao sa. Màn sương dày dan lên, cảnh vật mò di trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách thích giang hồ với hôn thơ lai láng, tình ngưoi nông hậu bưóc xuống một con thuyền rồng, có le con thuyên này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Truoc mui thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngăm trăng. giữa là mot sàn go bào nhan có mui vòm được trang trí lộng lấy, xung quanh thuyên có hình rông và trước mui là một đầu rồng như muốn bay lên Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm dàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, dàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để go nhịp. |