Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Tóm tắt: Vẽ nhọ bôi hề là phóng sự của Thiên Hư – Vũ Trọng Phụng đăng trên báo Phụ nữ thời đàm (Hà Nội) năm 1934, thời Pháp thuộc. Tác phẩm điều tra “hậu trường” sân khấu hát và phản ánh chân thực cuộc sống hoặc thất nghiệp, hoặc nhọc nhằn “cười ra nước mắt” của lớp nghệ sĩ (đào, kép) thời bấy giờ. Điều đó cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 – 1933 đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Mặt khác, thời đó, văn hoá phương Tây ...Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Tóm tắt: Vẽ nhọ bôi hề là phóng sự của Thiên Hư – Vũ Trọng Phụng đăng trên báo Phụ nữ thời đàm (Hà Nội) năm 1934, thời Pháp thuộc. Tác phẩm điều tra “hậu trường” sân khấu hát và phản ánh chân thực cuộc sống hoặc thất nghiệp, hoặc nhọc nhằn “cười ra nước mắt” của lớp nghệ sĩ (đào, kép) thời bấy giờ. Điều đó cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 – 1933 đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Mặt khác, thời đó, văn hoá phương Tây du nhập mạnh mẽ vào nước ta, nhiều loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại ngày càng được công chúng ưa chuộng như kịch nói và đặc biệt là nghệ thuật thứ bảy (điện ảnh) khiến nghệ thuật truyền thống của dân tộc như chèo, tuồng, cải lương bị cạnh tranh gay gắt trong vấn đề tồn tại. Văn bản dưới đây được trích từ tác phẩm. * Sân khấu là cái chợ bày trò kim cổ, xếp cuộc tang thương. Chợ ấy, muốn vào, phải nộp tiền “vào cửa”. Cửa chợ phải mở to để đón khách vào xem, mà không lẽ lấy tiền vào cửa cả khóe mắt mọi người qua lại, nên sau chiếc khuôn cửa phải có cái màn đỏ. Giọng hát tiếng đàn lọt ra ngoài như giục khách vứt ra mấy hào để cuốn tấm màn kia mà xem trò tang thương nọ. Chiếc màn ấy là vật quan hệ nhất trong một rạp hát. Khách muốn đọc câu thần chú “Vừng, vừng, mở ra” thì hãy chịu khó rút ví ra đạo bùa linh ứng: tiền. Thế mà tôi đã trông thấy rạp hát kia có lần “bỏ rợ” cái màn, vì nó thành ra vô ích. Cả sân khấu hôm đó cũng không làm cái việc thường ngày của nó: người ta đã dùng nó để bày một bàn thờ lộng lẫy, đèn nến sáng trưng. Tại chỗ những dãy ghế khách ngồi, lúc này là những bàn tiệc phủ vải trắng tinh bên trên có những lọ hoa hồng. Và đáng lẽ nghe thấy giọng than của đào Đính, tiếng hét của kép Ba Liêu, điệu âm nhạc hỗn loạn của cái trống cái, cái thanh la, cái kèn tàu, ta chỉ thấy văng vẳng, tỉ lệ mấy tiếng dây tơ có lẫn giọng ngân thánh thót của một chị em dưới xóm. Cho thấy cố nhân? Đâu tìm đâu cho thấy cố nhân? Hôm đó, ban trị sự, các ngài cổ động, ban đào kép, cả ba phái đã hội họp nhau ăn tiệc tại nơi này. Tôi đã trông thấy những người có bộ mặt tươi cười của ngày tết Nguyên đán. Trước khi quây nhau lại chè chén, người ta túm năm tụm ba thành những đám nhỏ, tản mạn khắp rạp. Cốt câu chuyện là việc thịnh suy của rạp, những là lãi năm nay kém lãi năm ngoái hai nghìn nhưng số lãi cũng là vạn hai. Lãi cuối năm vạn hai! Ai mà không hể hả! Người ta ăn tiệc rồi người ta chia lãi. Ông chánh ban trị sự hút xì gà thì người phu khiêng đồ trong rạp cũng phì phèo điếu thuốc lá Anh. Và, có điều là đáng để ý vô cùng, là bọn người này, những người bán hỉ, nộ, ai, lạc cho đời, trong lúc vui sướng của mình lại phải cần vui ở giọng hát cung đàn của vài chị em dưới xóm! Vậy thì, tôi đã thấy cái quang cảnh tưng bừng của một rạp hát vào cái ngày mà người ta vén toang cái màn đỏ, mà các bạn hát tế Tổ, mà những người có cổ phần cùng ban trị sự cũng tế một ông Tổ khác nữa: Thần Kim Tiền. Một người trèo thang lên cổng rạp mắc vào tường tràng pháo dài một thước tây. Đứng dưới là một bạn trẻ con... hăm hở. – Thế nào, đã giáp mặt ông chủ chửa? – Chửa. – Thế còn đợi đến bao giờ? – Phải chờ lúc nào người ta không bận việc mới được chứ. Thoạt tiên tôi cũng không để ý mấy tới những câu hỏi, đáp trên này. Chợt thấy một giọng gay gắt của một người thứ ba: – Đã bảo vào thì cứ vào phăng ngay đi lại còn trù trừ mãi. Ở đây đã ngót tuần lễ rồi, nếu không quyết định thì... liệu có còn nổi tiền ăn đường về hay không? – Anh ngu lắm! Dù sao cũng phải giữ cái giá trị của mình mới được chứ! – Giá trị! Lại còn giá trị! Có hoạ giá trị cái cóc khô! Câu chuyện đương êm đềm bỗng thành ra xô xát. Tôi ngoảnh lại. Đó là hai người, cũng khăn lượt, áo kép the, giày tàu, trông có vẻ nửa quê nửa tỉnh, không có gì đặc sắc nếu mỗi người không có một chiếc răng vàng lẫn vào hai hàm răng đen. Còn người đã vô tình vì hỏi thăm mà gây cuộc hục hặc nhau cho hai người này là một người đàn bà bán hàng nước. Cứ những cái tai nghe mắt thấy ấy cũng đã đủ khiến tôi đoán nổi rằng đó hẳn là hai bác kép về tìm việc làm tại đây. Khi họ đã chán chê đứng ngắm cái cảnh sung sướng chẳng phải của mình mà kéo nhau đi, tôi theo người đàn bà về hàng nước. Quả nhiên, tôi đã đoán nhắm… – Thưa ông, đó là hai tay kép có tiếng ở Bắc Giang, vì rạp trên đó tan nên về đây tìm việc. Chả biết có thành cơm cháo gì không! Hiện nay, trong Quảng Lạc đã có tới năm mươi đào kép rồi. – Chắc số đào kép nghỉ việc hiện nay cũng chẳng phải là ít. – Hằng hà sa số ông ạ. Mới hôm kia tôi cũng biết hai người. Lại cách đây một tháng, ba người. Tôi biết rõ lắm vì họ thường trọ tại nhà hàng cơm của chị tôi. Một người hình như đã được vào Sán Nhiên Đài và một người vào Cải lương hí viện. Còn ba người nữa hình như phải quay về quê cả rồi. Thời buổi này, nghề gì chả khó. Tôi biết tìm cách nào hòng làm cái biểu thống kê những đào kép thất nghiệp – đàn thiêu thân khốn khổ đến nỗi chẳng chen nổi một chỗ bay quanh cái bóng đèn, muốn tự thiêu cũng không xong? Sân khấu một rạp hát Hà Thành đối với bọn này là Bồng Lai hay là Địa Ngục? [...] – Hằng hà sa số ông ạ. Câu nói trên này còn văng vẳng mãi bên tại tôi. [...] Thế kỉ này là thế kỉ vội mà sân khấu cũng đã hết cất tiếng gọi trong dân gian. Mọi sự tiến bộ đều đi mau nhưng nạn thất nghiệp còn đi mau hơn hết! [...] (Vũ Trọng Phụng, Vẽ nhọ bôi hề, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000) a) Xác định đề tài và đặt tên cho văn bản trên (khác tên tác giả đã đặt cho văn bản). |