Mai Phương | Chat Online
27/10 20:16:39

Đọc đoạn văn. Thực hiện các yêu cầu sau


 Tiễn đưa một chén quan hà(1)
 Xuân đình(2) thoát đã dạo ra Cao đình(3)
Sông Tần một dải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời
Nàng rằng: Non nước xa khơi
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
Dễ loà yếm thắm trôn kim(4)
Làm chi bưng mắt bắt chim(5) khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng(6)
 Đến nhà, trước liệu nói sòng(7) cho minh
Dầu khi sóng gió bất tình
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi
Hơn điều giấu ngược, giấu xuôi
Lại mang những việc tày trời đến sau
Thương nhau xin nhớ lời nhau
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
Chén đưa nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
Người lên ngựa, kẻ chia bào(8)
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san(9)
Dặm hồng bụi cuốn chinh an(10)
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
 Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường

                  (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, 

NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1991)

Chú thích:

Vị trí đoạn trích: Bị Mã Giám Sinh lừa về nhà chứa của mụ Tú Bà, Kiều phải sống cuộc đời tiếp khách lầu xanh.Đau đớn vì nhân phẩm bị chà đạp, nên khi gặp Thúc Sinh, con nhà buôn giàu có, là con rể của quan Lại bộ Thượng thư, Kiều nhận lời lấy lẽ Thúc Sinh. Kiều khuyên thúc Sinh về gặp vợ cả là Hoạn Thư để trình bày sự thật.

(1) Quan hà: Quan là cửa ải, hà là sông. Chén quan hà: chén rượu tiễn biệt.

(2) Xuân đình: Có thể hiểu là nơi sum họp, vui vẻ; 

(3) Cao đình: nơi tiễn biệt nhau

(4 ) yếm thắm trôn kim, (5) bưng mắt bắt chim: cả hai câu này đều ý nói việc Thúc Sinh lấy Kiều làm lẽ không thể nào giấu kín được.

(6) Đèo bòng: có nghĩa là vương vít tình duyên.

(7) Nói sòng: Tức nói thẳng, nói trắng ra, không quanh co giấu giếm.

(8) Bào: Áo. Thường thường trong khi ly biệt người ta hay nắm lấy áo nhau, tỏ tình quyến luyến. Chia bào tức là buông vạt áo.

(9) Quan san: Quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở.

(10) Chinh an: cách đọc khác của chinh yên, tức yên ngựa của người đi xa.

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Chỉ ra những hình ảnh diễn tả cảnh đôi lứa biệt li trong những dòng thơ sau:

Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Câu 3. Nhận xét về tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong hai câu thơ:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Câu 4. Nêu ý nghĩa của các từ Hán Việt được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 5. So sánh trạng thái cảm xúc của Kiều khi chia tay Thúc Sinh ở đoạn thơ trên với khi chia tay Từ Hải ở đoạn thơ sau:

Nàng rằng:Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Từ rằng “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

 

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

                ​​​  (Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Bài tập chưa có câu trả lời nào. Rất mong nhận được trả lời của bạn! | Chính sách thưởng | Quy chế giải bài tập
Không chấp nhận lời giải copy từ Trợ lý ảo / ChatGPT. Phát hiện 1 câu cũng sẽ bị xóa tài khoản và không được thưởng
Đăng ký tài khoản để nhận Giải thưởng khi trả lời bài tập.
Đăng ký tài khoản để có thể trả lời bài tập này!

Đăng ký qua Facebook hoặc Google:

Hoặc lựa chọn:
Đăng ký bằng email, điện thoại Đăng nhập bằng email, điện thoại
Lazi.vn