Đọc thông tin dưới đây và trả lời câu hỏi:
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
1. Khái quát về đặc điểm ngôn ngữ Thái Nguyên
Tiếng Việt từ lâu đã là ngôn ngữ phổ thông của người dân cả nước cũng như của Thái Nguyên, dù việc sử dụng tiếng Việt có thể không đồng đều ở các dân tộc, các lứa tuổi. Hiện tượng này diễn ra mạnh mẽ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 khí có sự xáo động về dân cư và tiếp xúc xã hội. Thông qua hệ thống giáo dục, phạm vi tiếng Việt ngày càng mở rộng, trở thành nhân tố tác động đến các ngôn ngữ khác.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 51 dân tộc sinh sống. Trong đó 7 dần tộc thiểu số chiếm số dân cư đông nhất là: Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao, Mông, Hoa, Riêng dân tộc Tây chiếm số lượng lớn thứ hai, chỉ sau dân tộc Kinh. Sự đa dạng về dân tộc dẫn đến sự ảnh hưởng lẫn nhau về ngôn ngữ giữa các dân tộc.
Quá trình hình thành, khai phá lãnh thổ ở Thái Nguyên, bên cạnh quá trình định cư, sản xuất, đô thị hoá, hình thành các khu công nghiệp đã dẫn đến trạng thái phân bố đan xen giữa các dân tộc. Việc sử dụng tiếng Việt là tiếng phổ thông cùng với một vài ngôn ngữ khác như tiếng Tày, Nùng đã được người dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên sử dụng trong giao tiếp hằng ngày.
EM CÓ BIẾT?
Ở một số vùng, trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay.... hoặc người Kinh ở vùng miền núi Thái Nguyên có hiện tượng sử dụng tiếng Tây, tiếng Nùng như ngôn ngữ chung, Tiếng Kinh và tiếng Tày, tiếng Nùng có sự giao thoa khá sâu sắc, một số từ ngữ tiếng Tày được sử dụng rộng rãi nên được bổ sung vào ngôn ngữ tiếng Việt ở Thái Nguyên.
Về mặt ngữ âm, tiếng Tày không có thanh ngã như tiếng Việt nên khi người Tày phát âm tiếng Việt, ở những tiếng có thanh ngã sẽ thường chuyển sang thanh sắc. Ví dụ: ngỡ ngàng - ngỡ ngàng; lễ hội → lễ hội; đỗ tương - đỗ tương.
Do thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ, học sinh dân tộc Tày khi nói, viết dễ mắc một số lỗi như: xói → xưới, quên → quyên; quyết → quết. Tiếng Tày không có phụ âm /g/ nên khi đọc, nói tiếng Kinh, học sinh dân tộc Tày thường chuyển thành/ng/ hoặc/k/.
Về mặt từ ngữ, do quá trình tiếp xúc lâu dài nên giữa tiếng Tày và tiếng Kinh có sự giao lưu sâu sắc. Tiếng Tày đã nhận về mình vốn từ Hán Việt để làm giàu thêm vốn từ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm. Theo thời gian, sự giao lưu, thẩm thấu sâu sắc đến mức khó lòng nhận ra trường hợp nào từ có nguồn gốc tiếng Tày - Nùng và ngược lại, trường hợp nào từ có nguồn gốc Hán Việt. Ví dụ: pây tàng (tàng - đường), pây lô (lò – lộ),
khai tu (khai – mở).
Cũng trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Kinh - Tày, tiếng Tây đã tác động trở lại, theo kiểu kết hợp các tiếng đồng nghĩa để tạo thành từ ghép chính phụ, trong đó yếu tố đứng sau có nguồn gốc tiếng Tày vẫn còn rõ nghĩa. Ví dụ: dao pha, đòn căn, lược bí, ống bang, mặt nạ, mưa phùn,... Hoặc yếu tố đứng sau đã bị mất nghĩa, ví dụ: trắng nõn, trắng phau, trắng lốp, xanh lè, thơm phức.
Sự kết hợp còn diễn ra theo kiểu ghép yếu tố tiếng Kinh với yếu tố tiếng Tày vẫn
còn rõ nghĩa để tạo ra từ ghép đẳng lập. Ví dụ: củi đuốc, bơi lội, xối xả, sợ hãi, đưa đón, mịt
mờ, trông coi, v.v. Cũng có khi, sự kết hợp giữa tiếng Kinh với tiếng Tày tạo nên từ ghép
đẳng lập mà yếu tố sau có nguồn gốc tiếng Tày nhưng đã bị mất nghĩa. Ví dụ: chó má, xin xỏ, cây cối, tre pheo, nhỏ nhoi, áo xống, súng ống, kiêng khem, xấu xí, cau có, sống sít, tục tần, tỉa tót, v.v.
2. Một số lỗi chính tả thường gặp do cách phát âm địa phương
a. Lỗi nhầm lẫn thanh ngã với thanh sắc
- giá gạo -> giá gạo; ngã ba sông -> ngả ba sông, suy nghĩ -> suy nghĩ.
- những -> nhứng; sẽ -> sé.
b. Lỗi nhầm lẫn giữa ên với uyệt; uyêt với êt
quên -> quyên; quyết tâm -> quết tâm.
tuyên dương -> tuên dương; huyết áp -> huết áp.
Ở một số vùng, học sinh cũng thường mắc một số lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm phương ngữ Bắc như:
- Nhầm lẫn x với s, ví dụ: xót xa -> sót xa; xuất xứ -> xuất sử.
- Nhầm lẫn ch với tr: chải chuốt -> trải truốt; bóng chuyền -> bóng truyền.
Nhầm lẫn r-d-gi: tranh giành -> tranh dành; rọc phách -> giọc phách.
Nhầm lẫn uệch - uyêch: rỗng tuếch -> rồng tuyếch.
Nhầm lẫn uênh – uyênh: huênh hoang -> huyênh hoang.
CÂU HỎI:
1. Vi sao có sự biến đổi ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) ở Thái Nguyên?
2. Về mặt ngữ âm, tiếng Tày có đặc điểm gì? Đặc điểm đó thường dẫn đến lỗi sai khi nói và viết thế nào?
3. Chỉ ra một số bằng chứng về quá trình tiếp xúc giữa tiếng Tày với tiếng Kình.
4. Trong giao tiếp hằng ngày, khi gặp những trường hợp nói ngọng, viết sai, em sẽ ứng xử thế nào?