Đọc ngữ liệu sau và thực hiện yêu cầu:
Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng bạc mệnh.
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi mấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung(1),
Nào người tích lục tham hồng(2) là ai ?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vái gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy(3) bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm giắt sẵn mái đầu,
Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài.
(Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, theo bản năm 1953.
Dẫn theo Truyện Kiều chú giải, Lê Văn Hòe, Nxb Văn học, Hà Nội, 2021).
Chú thích:
(1) Phượng chạ loan chung: phượng và loan ám chỉ trai gái, ý nói trai gái ở bên nhau.
(2) Tích lục tham hồng: tiếc màu lục – ám chỉ màu xanh biếc của nước tóc, tham màu hồng – ám chỉ sắc hồng của má đào.
(3) Cỏ áy: cỏ đã héo úa.
Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên.