Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản Buổi sáng, Dần dậy sớm, quét sân. Đây là thói quen của Dần từ ngày đi ở cho nhà bà Chánh Liễu. Dần phải đi ở vì nhà Dần nghèo. Mẹ Dần sau khi làm ra vẻ mặt hắt hủi đuổi Dần đến nhà bà Chánh Liễu thì ôm mặt khóc hu hu. Dần đi ở được hai năm thì mẹ nó chết. Nó phải trở về trông em và bố con làm thuê làm mướn nuôi nhau. Nhưng cuộc sống mỗi ngày một khốn khó: bão lụt, hạn hán, thóc cao gạo kém, công xá thì rẻ mạt, người ta cũng không chịu thuê mướn người làm. Món nợ bà thông gia để làm ma cho mẹ Dần thì vẫn chưa trả được. Tình thế ấy buộc bố Dần phải quyết định cho người ta cưới nó đi. Còn ông thì đành liều một phen lên rừng xoay xỏa kiếm ăn dẫu biết việc đi rừng kiếm ăn vô cùng nguy hiểm. Khi đang quét sân, Dần nhớ lại câu chuyện hai bố con đã nói với nhau vào một đêm nọ). […] Chuyện cưới xin khiến Dần thèn thẹn. Thành thử nó lại không tìm được câu gì để nói. Vẫn người bố nói: - Thôi thì trước sau cũng một lần. Có rùi gắng cũng chẳng rùi gắng được bao nhiêu. Mắc cái người ta xin cưới mấy lần rồi. Tao khất mãi để cho hết tang bu mày đã; nhưng người ta nhất định xin lo trước. Chết cái con gái người ta cũng sắp cưới rồi: nhà người ta cũng neo người; không cưới mày về thì ngay đứa sai vặt cũng không có nữa. Vả lại chỗ người ta với mình, không lẽ thế nào? Người ta ăn ở phải thì mình cũng phải ăn ở phải, thấy người ta nói mãi, tao cũng nể. Dần tức tối: - Nể! Nể cái gì! Thầy cứ bảo rằng: mẹ con chết đi rồi, hai em thì còn dại, chỉ có con hơi lớn một tí phải ở nhà để thổi cơm, nấu nước. - Thì tao vẫn bảo người ta thế. Nhưng người ta không chịu. - Không chịu là không chịu thế nào? Quyền còn ở mình... - Thì vẫn là quyền còn ở mình? Cho nên người ta có dám bắt mình đâu? Người ta chỉ cố nài. Người ta nói khó với mình. Tao thề với mày: hai ba lần bà ấy không khóc với tao, tao chết! Rồi bà ấy lạy. Bà ấy bảo: Thế này này, ông ạ: ông cũng khổ, nhưng tôi còn khổ hơn ông, thầy cháu chết đi, tôi chỉ được có mình cháu là con trai, ông cố thương tôi...". Như thế thì tao còn biết từ chối người ta thế nào cho tiện? Rồi thầy Dần nói nhỏ: - Mắc cái lúc mẹ mày nằm xuống, nhà không còn một đồng xu nào, không còn vớ víu vào đâu được, tao đã nhận của người ta hai mươi đồng bạc cưới. Ý người ta định đưa tiền trước thế, rồi xin cưới ngay cuối năm, năm ngoái. Tao phải khất. Nhưng không lẽ khất lần người ta mãi? Người ta lại tưởng mình có ý lừa lọc gì người ta chăng. Hôm nọ người ta lại đến xin lần nữa. Họ xin đến tháng giêng... Nhưng từ giờ đến tháng giêng có là bao? Ðằng nào mày cũng phải đi, mà mày đi thì tao không làm thế nào vừa trông coi các em mày vừa đi làm được. Cho nên tao nhất định mang gửi chúng nó, rồi lên rừng một chuyến. Kiếm ăn được, tao sẽ đem chúng nó đi. Ðịnh thế, nên tao bảo người ta: "Nếu bà nhất định lo, thì tôi cho lo ngay dạo trong năm". Người ta có hỏi tao: "Ông đã thương... trước nữa là thương cháu, sau nữa là thương tôi, mà rộng cho như thế, thật cũng là phúc nhà chúng tôi lắm lắm. Tình cảnh nhà tôi, chắc ông cũng chẳng còn lạ gì. Chúng ta cùng là cái chỗ nghèo hèn, thì con cái chúng ta lại làm bạn với nhau. Vậy ông định may vá cho cháu thế nào, ăn tiêu thế nào, thì ông cho chúng tôi biết để chúng tôi lo. Tao nghĩ nát ruột cũng không biết trả lời thế nào cho tiện. Vải giấy như vải giấy năm nay?... Xin ít thì không biết may gì. Chỉ một bộ quần áo cánh vải to cũng phải non ba chục. Mà xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày. Tao phải bảo người ta: muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám nhận. Bà ta bảo: "Ta với ta, chẳng nói gì ông cũng rõ: cái lúc khó khăn thế này, mười nhà họa mới có một nhà có tiền mà may mặc, còn thì chỉ quần manh, áo vá, đeo dây, quấn rợ; chắc ở nhà ông thì cũng thế, mà nhà tôi thì cũng vậy. May quần chùng áo dài cho cháu, bất quá chỉ mặc một ngày cưới mà thôi, rồi cũng bằng để đấy, cảnh nhà chúng ta thì còn hội hè đình đám gì mà phải sắm quần chùng áo dài kia chứ?... Vậy ông đã dạy thế, thì tôi xin may cho cháu một bộ quần áo vải, quần áo cánh thôi, để cháu nó mặc đi làm ấy; còn hôm cưới, nếu cháu nó chưa có áo chùng, thì tôi xin đưa cái áo chùng của tôi cho nó mặc, cho nó qua cái ngày ấy, kẻo cháu nó là trẻ con nó lại tủi thân chăng. Rồi từ hôm sau mà đi lại cứ quần áo đụp, đem ra mà mặc. Cái áo dài lại cất đi. Ấy, nhà có một mẹ, một con, chỉ một cái áo dài là đủ chán! Mẹ đi đâu mẹ mặc; con đi đâu con mặc. Việc may mặc cho cháu thế cũng là tàm tạm được. […]. (Tóm tắt phần cuối: Xế chiều hôm ấy, bà mẹ chồng và chồng Dần đến đón dâu. Đến tối, đám cưới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai. Dần không chịu mặc cái áo dài của mẹ chồng đưa mà mặc như thường ngày với cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch có nhiều chỗ vá, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ... Ăn vội xong bữa cơm ở nhà trai, bố Dần và hai em ra về, Dần khóc nức nở: - Thầy đừng... đi... lên rừng! Người cha thấy lòng thổn thức và đáp liều: - Ừ, thì thôi... Mẹ mày!) (Trích Một đám cưới, Tuyển tập Nam Cao, NXB Văn học, 2005, tr.288-289) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. Câu 2: Đoạn trích cho thấy nét đẹp nào trong tính cách của nhân vật người bố? Câu 3: Đoạn trích cho em cảm nhận được gì về số phận người nông dân trong xã hội cũ? Câu 4. Nhận xét về giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm? Câu 5: Từ nội dung văn bản, hãy viết đoạn văn NLXH bàn về: vẻ đẹp tình người trong nghèo khó. |