trần hạo thiên

#hashtag
1.435
6 theo dõi 25 bạn
Thông tin
Link tài khoản:
Xem trên Lazigo
Thành tích: 0 câu hỏi | 8 trả lời
Điểm số: 23đ giải bài | 0đ tặng
Chưa đạt Huy hiệu Học tập
Số ngày hoạt động: 69 ngày
Huy hiệu Chuyên cần:
Khởi đầu
Khởi đầu
Huy hiệu (+)
4 - 4 - 2000
Học lực: Chưa xác định
Cấp học:
Môn học yêu thích:
Tình trạng: Chưa xác định
Sở thích: Chưa xác định
22 ảnh
Đã tham gia: 05-03-2020
Số ngày hoạt động: 69 ngày
Ảnh nền
Báo cáo vi phạm
4.7
295 sao / 63 đánh giá
5 sao - 58 đánh giá
4 sao - 0 đánh giá
3 sao - 0 đánh giá
2 sao - 0 đánh giá
1 sao - 5 đánh giá
Điểm 4.7 SAO trên tổng số 63 đánh giá
0 quà tặng | 0 câu hỏi | 8 trả lời
3 0
trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:19:50
Chat Online
HỒN AI ĐÃ HÓA QUỶ - PHẦN 2

Ông Hoài móc xong búi tóc trong cổ họng, cũng là lúc cảnh tượng ấy rơi vào mắt Huy một cách trọn vẹn. Anh kêu lên những âm thanh đầy oán trách Yến. Anh đã từng khấn vái cầu xin cô buông tha cho anh rồi? Vậy vì sao cô vẫn làm như vậy? Liệu rằng những lời Huyên nói là đúng, rằng Yến đã thực sự trở thành một con quỷ?

- Bố, bố có sao không?

Huy đến gần ông Hoài, đỡ ông dậy và vuốt lưng cho ông thoải mái. Ông Hoài lắc đầu xua tay kinh sợ nói:

- Không, bố không sao...

Ông vẫn còn đang kinh hoàng không hiểu chuyện gì xảy ra, lại thấy những bức ảnh chụp tập hồ sơ tại máy điện thoại của Huy, chiếc điện thoại ấy đang rơi dưới đất. Ông vồ lấy chiếc điện thoại rồi cầm lên đọc. Bỗng ông trợn mắt hoảng sợ nhìn Huy hỏi như quát:

- Mày đã về làng rồi có đúng không?

Huy ú ớ, chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì ông Hoài đã nhoài đến túm cổ áo anh:

- Mày nói đi, có phải mày đã về làng rồi không?

Bỗng ông Hoài đang nói liền dừng lại, nửa phút sau quay sang ôm đầu, rồi gục xuống đất ngất lịm.

Choang!

Bà Ích đang bê trên tay bát tô canh, không nhìn được khiến nó trượt rớt xuống mặt sàn, vỡ nát. Qua lời đối thoại giữa hai bố con, bà đã hiểu hết mọi việc. Bà hoảng hốt, miệng méo xệch than thở:

- Trời ơi con tôi, sao số nó khổ thế hả trời. Đã tránh đi rồi mà sao cái số kiếp nó vẫn ập đến nhà tôi thế này...

Bà ngồi thụp xuống đất khóc ròng. Huy rất bất ngờ, anh chạy đến đỡ bà ngồi thẳng dậy gặng hỏi:

- Mẹ! Mẹ nói cho con biết đi, đã có chuyện gì xảy ra?

Bà chỉ sụt sùi khóc một lúc, cố nuốt nước bọt nói:

- Kể từ cái ngày mày rời làng đi, là hồn của con Yến nó hành hạ bố mẹ mày đến sống dở chết dở con ơi! Đáng lý ra mẹ phải nói cho mày biết ngay việc ấy, nhưng tại bố mày cứ gàn...

Bà thở dài bắt đầu kể về câu chuyện cũ, chuyện cái ngày hồn ma của Yến trở về tìm hai ông bà.

...

***

hon-ai-da-hoa-quy-phan-2

Năm đó, vào một đêm đông giông bão. Ông Hoài đi ra đồng thì chợt bắt gặp một người con gái áo trắng. Cô ta đứng thất thểu ở gốc cây đa đầu làng. Giữa trời mưa giông, sương mù lại hơi đậm nên ông Hoài chẳng nhìn rõ là ai.

Khi ông tới gần để muốn hỏi chuyện thì người con gái ấy đột nhiên biến mất. Ông Hoài hoảng quá nghi là ma cỏ, về kể cho bà Ích biết chuyện này thì bà chỉ chửi ông là dở hơi và nghĩ quẩn. Nhưng bà nào có biết, hồn Yến cứ bám theo ông đeo đẳng không rời từ lúc bấy. Cứ mỗi khi ông Hoài ra đồng luôn có một người con gái theo đến đầu đường. Và cứ mỗi khi ông Hoài cất tiếng gọi, cũng là lúc nó biến mất không còn chút tăm hơi.

Nó cứ đeo đẳng ông mãi như vậy. Cho đến nửa tháng sau thì cũng là lúc nó hành động.

Hôm ấy ông đi làm đồng về, trời nhá nhem tối. Bà Ích kể từ chiều đã qua nhà bác Hiền phụ giúp đám giỗ. Nên lúc ấy trong nhà không hề có người. Nhưng mà lạ thay cửa nhà vẫn mở toang.

Ông vào nhà, lại nom thấy có bóng người lui cui ngồi ở góc giường, tóc người ấy xõa ra khiến ông không nhìn rõ mặt. Người ấy chải tóc, miệng lẩm bẩm gì đó ông nghe không rõ.Ban đầu ông còn tưởng đó là bà Ích, nên yên trí ngồi xuống ghế băng, rồi đem ấm trà ra pha. Uống trà được một lúc, ông mới thoải mái cất giọng và hỏi bóng người ở góc nhà:

- Trời thì tối om om như thế này, mà sao bà không bật cái đèn điện lên cho nó sáng. Gớm chứ cứ tiếc được vài cái đồng bạc lẻ thì có được cái tích sự gì, đến khổ. Cứ bật đèn lên để muỗi nó thấy sáng nó còn bay đi hết, tôi bị muỗi nó đốt rát chân rồi đây này...

Người trong góc giường vẫn không nói gì, chỉ vuốt ve mái tóc hồi lâu. Ông Hoài thấy sự lạ, bèn đặt chén chè xuống bàn, rồi tiến đến gần cái cột nhà, tự bật bóng đèn lên nhìn cho rõ.

Vừa bật xong cái bóng đèn, ông quay lưng lại thì người ngồi góc giường đã biến đâu mất, chỉ còn lại một cái lược ngà nằm trên chiếc chiếu cói.

Ông Hoài hoảng quá, ú ớ không nói được gì. Đúng lúc có giọng bà Ích vọng từ ngoài cổng:

- Chịu cái nhà ông này, ra vào thì gắng mà khép cái cổng lại. Để mở thế này gà nó xổng khỏi vườn ra ngoài hết thì ai đi lùa?

Bà làu bàu, dắt cái xe đạp vào trong sân, rồi đóng lại cánh cổng sắt.

Khi bà vừa vào nhà, bắt gặp đôi mắt mở to đầy vẻ kinh hãi của ông Hoài đang kinh sợ nhìn về góc giường.

Liền giật mình vội hỏi:

- Trời ơi, ông bị làm sao thế kia, lại trúng gió hả?

Rồi bà hối hả sấn lại gần, nắn bóp chân tay cho ông. Ông Hoài liên tục lắc đầu, một lúc sau thì mới nói được vài câu:

- Tôi vừa mới thấy có người ngồi ở cái góc giường đằng kia kìa, rõ ràng là ngồi chải tóc, còn nói cái gì đấy. Tôi còn ngỡ là bà, ai ngờ bật đèn lên thì thoắt cái đã không thấy nó đâu...

Nghe đến đây, hai mắt bà Ích chợt đảo đến góc giường, nơi bà nhìn thấy chiếc lược ngà sờn cũ năm nào. Bà chạy đến cầm chiếc lược ấy lên rồi ngạc nhiên nói:

- Ơ, đây là cái lược ngà hồi mẹ mất để lại cho tôi mà. Trời ơi, tôi còn cứ tưởng là mất hẳn không tìm được, hóa ra là nó nằm ở đây...

Ông Hoài gấp giọng:

- Đấy, chính là cái lược ấy, khi nãy chính là cái lược mà nó chải. Giờ người thì mất, lược thì vẫn còn...

Bà Ích xua tay:

- Thôi! Lại nói vớ vẩn, rồi giống mấy cái lần mà ông nhìn thấy bóng người con gái áo trắng ở đường đồng chứ gì, lại thần hồn nát thần tính cả thôi. Giờ người ta hay có cái bệnh về đằng tâm lý, tưởng tượng ra những thứ lung tung. Để nay mai tôi đưa ông lên viện huyện khám xét thử xem, chứ không để lâu khéo hóa thần kinh chứ chẳng đùa...

Ông Hoài cố sống cố chết lắc đầu khẳng định nói:

- Không, rõ ràng là tôi tận mắt nhìn thấy mà lại, không thể nào mà lại nhầm được. Vì chính khi nãy nó chải cái lược ấy, mà giờ này cái lược còn người thì lại mất. Thế thì không thể nào là do tôi hoa mắt hay tự tưởng tượng ra được...

Bà Ích ngẩn người, rồi giơ chiếc lược đưa lên trước mặt nhìn kiểm chứng, cũng thấy lời ông Hoài nói có vẻ có lý. Không dưng cái lược này lại xuất hiện ở đây như thế được, hẳn là phải có nguyên do. Tuy vậy, bà không đồng tình cũng không khẳng định, chỉ nói:

- Cứ cho là có ma quỷ gì đó nó lẩn quẩn quanh đây. Nhưng nếu nó muốn làm gì thì đã làm rồi, chứ chẳng chỉ dọa xuông như thế. Để mai tôi qua bà cô họ hỏi thử xem, bà ấy mấy năm nay cũng lập điện thờ chúa nên khéo biết việc này đấy.

Ông Hoài thở dài phất tay nói:

- Thôi cứ tạm thế đã, rồi bà đi nấu cơm đi. Cả ngày hôm nay hì hục ngoài đồng đã được hạt cơm nào vào bụng đâu!

Bà Ích cười, trỏ tay vào rỏ xe đạp ngoài sân rồi nói:

- Tôi đi giúp đám giỗ, cũng mang về được tí thức ăn, chỉ cần hâm nóng cái chỗ ấy lên là tối nay hai vợ chồng mình cũng chẳng phải nấu gì nhiều!

Nói xong, bà đon đả chạy lại chỗ chiếc xe đạp, thoạt đầu thò tay vào cái rỏ, bỗng liền thảng thốt kêu lên:

- Rõ ràng là cái túi bóng thức ăn khi nãy tôi vẫn còn để đây cơ mà. Sao giờ lại không cánh mà bay đi đâu được nhỉ, hay là cái rỏ thủng nên rơi mất?

Bà Ích căng mắt nhìn vô cái rổ xe, rồi rõ ràng nhìn thấy là nó không hề bị thủng. Hay là có khi nào con Ki nó ngửi thấy mùi đồ ăn, rồi nhân lúc bà vào nhà đã nhảy chồm lên cái rổ, cắp mất túi thức ăn đi hay không?

Con Ki là con chó trắng bà nuôi cách đây một năm trời, Ki càng lớn càng khôn lại hiểu ý chủ. Trước nay chỉ cần bà nói một là nó hiểu hai, mà tính nó xưa nay chưa bao giờ dám ăn vụng. Nên việc ấy bà Ích nghĩ là khó xảy ra những vẫn quen miệng muốn gọi. Vì thói đời của loài động vật xưa nay dù có khôn lanh đến đâu, thì chắc hẳn cũng có lúc chúng mắc phải lỗi lầm theo bản năng của loài.

Nghĩ đoạn, bà liền chống tay vô hông quát to:

- Ki, Ki đâu?

Bà gọi to như thế, thì một lát sau liền thấy bóng con Ki lười nhác từ cạnh cái đống rơm nhổm dậy đi về phía bà. Nó còn ngáp ngủ như chưa được ngủ đã, chứng tỏ là vừa rồi nó vẫn còn đang ngủ chứ chẳng thể thức mà cắp mất túi thức ăn của bà được.

Bà Ích phân vân quá, không biết phải làm sao thì tiếng ông Hoài đã vọng ra:

- Bà tìm cái gì ở ngoài đấy, không thấy cái đĩa thức ăn đang ở trên ban thờ à? Bày biện thì rõ là đẹp như thế mà còn quên hay sao?

Ông Hoài lười nhác trỏ tay chỉ lên cái mặt ban thờ, nơi đang có cái đĩa thức ăn bày biện ngay ngắn đẹp mắt. Bà Ích ngạc nhiên quay lại nhìn.

Một lát sau nét mặt bà chợt chuyển sang tái mét rồi nói:

- Thôi chết rồi ông Hoài ơi, lời ông nói quả là không có sai đâu, nhà mình có ma nó ám rồi!

Ông Hoài giật bắn mình, người run mà tay phát lạnh. Trước nay bà Ích vẫn là người cứng miệng nhất nhà. Nhiều lần ông gặp cái bóng người kia mà bà Ích vẫn khẳng định là không có việc ma quỷ, khiến ông cũng an tâm phần nào. Ấy vậy mà giờ đây chính bà cũng đã mở miệng thừa nhận là quả thực có ma xuất hiện, thì cái bức vách niềm tin cuối cùng của ông có thể bấu víu, cũng đã bị sụp đổ.

Ông Hoài hoảng sợ nói:

- Thế thì phải làm sao đây? Từ xưa đến nay nhà mình có ăn ở thất đức với ai đâu mà ma nó theo được?

Bà Ích lắc đầu:

- Ma quỷ thì khó nói lắm, nhưng nếu nó đã theo mà ám quẻ mình thì hẳn là phải có lý do. Cái bóng người áo trắng mà ông nhìn thấy có lẽ là thật, vậy thì rất có thể từ khi ấy nó đã theo dáng ông về tận nhà. Tính từ cái lúc ông kể cho tôi nghe chuyện ấy, thì cũng đã được đến nửa tháng trời rồi. Mà ngày hôm nay nó mới hành động, vậy thì hẳn là sau này nó vẫn sẽ tiếp tục hại nhà mình, chỉ có điều là sẽ rất chậm thôi đấy!

Ông Hoài càng hoảng, nói:

- Thế bây giờ thì mình phải làm sao hả bà?

Bà Ích thoáng lau mồ hồi trên mặt, rồi bước đến gần cái ban thờ, nhìn vô cái đĩa thức ăn được bày biện đẹp mắt. Chợt bà thoáng thấy có cái mảnh giấy nhàu nát được kê ở dưới đĩa. Bà run tay nhấc cái đĩa lên, rồi cầm lấy mảnh giấy, đưa ra cái bóng đèn điện soi kĩ xem nó là thứ gì.

Cái mảnh giấy cũ nhàu nát, lại ướt nhẹp tả tơi. Trong ấy có loáng thoáng vài chữ đã phai mực, bà phải cố gắng căng mắt ra lắm thì mới đọc được dòng chữ trong ấy: "Con... dâu... hiếu kính... bố mẹ..."

Đọc được một nửa thì bà Ích liền quăng vội mảnh giấy mà ngã thụp xuống đất tái xanh mặt. Vì cái nét chữ trên mảnh giấy khi bà vừa đọc xong thì cũng trở nên nhòe đến mức tan biến trong cái lớp nước.

"Con dâu hiếu kính bố mẹ!" Những chữ này rốt cuộc là có ý gì? Từ hồi nào tới giờ bà có mỗi Huy là con trai, mà Huy thì sớm đã đi du học còn chưa có lấy vợ, vậy thì cô con dâu ấy ở đâu ra?

Bà Ích ngồi thừ một lúc lâu, ông Hoài phải cố sức lắm thì mới lay được bà ngồi thẳng dậy mà gặng hỏi:

- Trời ơi bà làm sao thế? Thế trong cái mảnh giấy ấy nó ghi cái gì mà lại khiến bà phát hoảng đến vậy?

Bà Ích xua tay thở dốc nói:

- Không xong rồi ông ơi, ma nó ám nhà mình thật rồi! Nó còn tự xưng nó là con dâu của vợ chồng mình kia kìa, nó muốn hiếu kính mình nên mới bày đĩa thức ăn như thế. Mà từ hồi nào tới giờ thằng Huy có lấy vợ đâu mà lại có con dâu nhỉ...

Nói đoạn bà phân vân, rồi chợt túm chặt tay ông Hoài rít lên:

- Hay là ông có con rơi con vãi gì ở ngoài mà giấu tôi, rồi giờ đứa con rơi của ông nó ăn ở thất đức hại chết người, nên ma nó mới về tìm vợ chồng mình mà trả thù?

Ông Hoài xua tay quát lên:

- Vớ vẩn, giải ngũ xong là tôi về quê ngay, ngày ấy chiến trường đánh nhau giữ mạng còn không xong, tòm tem với đứa nào sao được... Cái giống đàn bà như bà là chỉ hay nghĩ vớ vẩn thôi...

Ông Hoài nói đoạn liền tức giận, quay đầu ngồi xổm ở trên cái ghế đôn. Bà Hoài gạt nước mắt, rồi ngửa đầu nhìn lên chỗ ban thờ, ngẫm nghĩ một lúc mới nói:

- Được rồi, ông cứ ở nhà đi. Chuyện đã thế này thì ngay bây giờ tôi phải chạy qua nhà bà cô để hỏi cô ấy xem, chứ không thể để mãi như vậy!

Nói đoạn, bà Hoài đi ra sân, dắt cái xe đạp ra phía cổng. Mở cổng rồi phóng xe thoăn thoắt biến mất ở cuối con ngõ nhỏ...

Trong căn nhà, chỉ còn một mình ông Hoài là đang ngước nhìn lên cái ban thờ. Chính ông cũng hơi run vì cứ có cảm giác luôn có một bóng ma lẩn khuất đâu đấy quanh mình mà không nói rõ được.

Ông chẳng nhìn thấy nó, nhưng lại mường tượng nhớ lại cái bóng dáng ấy từ những lần trước đây khi ông gặp cái bóng người con gái áo trắng, rồi cũng có cảm giác như cái bóng người ấy đang nấp sau lưng mình vậy.

Con Ki lững thững đi lại ngoài sân, nó lười nhác đảo mắt khắp nơi như tìm kiếm thứ gì đó. Rồi chợt nó quay đầu đi vào trong nhà, hướng chỗ ông Hoài mà đi tới, rồi chõ mõm ngồi xổm liếm mép trước mặt ông.

Ông Hoài nom thấy thế liền quát lên:

- Gớm chửa, đến tao giờ này cũng chưa được miếng nào đây này!

Ông biết là con Ki đang đói nên đòi ăn, giờ này mọi hôm là bà Ích đã chuẩn bị xong cơm hai vợ chồng ngồi ăn. Và cũng y cái lúc ấy thì con Ki sẽ ngồi gần mâm thè lưỡi chờ vài mảnh xương vụn rơi vãi của hai ông bà. Nhưng hôm nay thì khác, chính ông Hoài lúc này cũng đang rất đói mà chẳng có thứ gì bỏ bụng. Con Ki lẽ thường cứ theo lệ là đúng giờ vào ngồi tại vị trí cũ mà chầu trực, mà bữa nay chẳng được miếng nào khiến cả ông cả nó đều cảm thấy tủi. Ông Hoài nhìn con vật đáng thương mà chỉ biết thở dài.

Ông vốn nghĩ, bà Ích khi nãy về thì sẽ nấu cho ông nồi cơm, ấy vậy mà bà lại bị cái chuyện vừa rồi dọa cho chạy sang nhà bà cô, bỏ ông ở lại nhà đói đến há miệng.

Ông Hoài ruột gan sôi cồn cào, đành phải tự động mò xuống dưới gian bếp, định bụng tự nấu lấy nồi cơm, rồi ăn chỗ thức ăn bày trên ban thờ kia. Dẫu gì thì cũng chưa biết là cái hồn ma ấy nó có ý tốt hay ý dở, nhưng cứ phải ấm bụng cái đã.

Mà khi ông vừa định mò vào cái gian bếp tối nhem, thì lại chợt thấy lửa ở trên bếp gio lập lòe. Có bóng người con gái đang lui cui dụi bếp. Bóng người ấy chợt thoáng quay qua nhìn ông, ông Hoài hơi giật mình kinh hãi. Cái gương mặt của người ấy căng phềnh, mái tóc ướt nhẹp rủ xuống, đôi mắt đen láy không có lòng trắng.

Con Ki lẽo đẽo theo ông, dường như nó cũng nhìn thấy những cảnh tượng ấy, nó chợt nhe răng gầm gừ. Tru lên những âm thanh đầy chói tai...

Bóng người ấy thoắt cái lại biến mất, ông Hoài dụi mắt như không tin nổi vào mắt mình. Ông tiến đến gần con Ki nép sát vào người nó như đang cố sức muốn nương tựa một người bảo vệ. Giờ này ngoài ông với nó ra thì trong nhà này làm gì còn ai cả.

Trong dân gian thường có một câu chuyện, chuyện kể rằng khi tổ tiên của loài chó là loài sói hoang sống chung với những thứ siêu nhiên, chúng có khả năng nhìn thấy giống loài mà quỷ và có thể xua đuổi giống loài ấy bằng tiếng tru của mình. Khi loài chó trở thành vật nuôi được con người thuần hóa, chúng đã bớt đi vẻ dữ tợn, nhưng bản năng trong chúng là không thể mất đi. Tiếng tru luôn làm ma quỷ kinh sợ, và cũng như một lời cảnh cáo của chúng dành cho chủ nhân phải cẩn thận.

Con Ki gầm gừ tru lên, rồi lại chuyển sang sủa tợn. Thoắt cái thì cái mũi của nó khịt khịt, nó quay sang một hướng khác ngay sau lưng ông Hoài rồi lại bắt đầu nhe răng. Ông Hoài hoảng quá, vì nếu như con Ki đúng thì nó chính là một thứ có thể nhìn được ma quỷ, thì việc mà nó chọn lựa vị trí để chõ mõm nhe răng lại chính là sau lưng ông, vậy thì không thể khác được chính là thứ vật kia đang ở rất gần ông chứ chẳng sai.

Ông Hoài choàng người đứng dậy hớt hải chạy ra cổng, muốn thoát khỏi cái bóng ma đang đeo bám mình. Nhưng ông chạy đến cổng để kéo cái chốt cửa cổng xuống, thì không hiểu sao cái chốt cửa cứ cứng đơ như mắc kẹt, gắng sức đến thế nào thì cũng không thể kéo ra nổi. Cái chốt cửa cứ như bị đóng đinh, sức ông khỏe thế mà lay mãi không được.

Ông Hoài toát mồ hôi hột, lại quay ngược trở lại chạy đến gần chỗ con Ki muốn nương tựa nó. Thì lại thấy con Ki đang sủa tợn chợt ngưng bặt, tiếng sủa của nó như tắc nghẹn ở cổ họng, miệng nó trào bọt mép kêu lên những âm thanh ư ử đầy thống khổ.

Bóng đêm tối sầm, ngoài sân chỉ có ít ánh đèn điện hắt héo ra đủ để ông Hoài nhìn thấy cái cảnh tượng ấy. Ông chỉ thấy con Ki dần gục xuống, nó thoi thóp trong những hơi thở cuối cùng. Rồi nó quay sang nhìn ông, với đầy vẻ van lơn như cầu xin sự giúp đỡ.

Nhưng ông Hoài chẳng thể làm gì để cứu nó, vì chính ông giờ này cũng hoảng sợ đến mức chân tay run lẩy bẩy. Ông nghĩ đến giữ mạng mình còn chưa xong thì nào đâu có thể lo cho nó được. Việc cái hồn ma này giết chết con chó của ông, chứng tỏ là nó đã chính thức thể hiện ra việc nó không có ý định gì tốt lành. Ông Hoài phân vân quá, chạy thì chẳng thể chạy được, mà có ở lại thì cũng không rõ sống chết ra sao. Đến cái bóng ma nó ở đâu thì ông cũng chẳng thể nhìn thấy, bóng đèn điện trong nhà thì lại chợt lập lòe chập chờn sau đó tắt hẳn. Ông Hoài nom thấy nơi duy nhất còn ánh sáng là ở trong căn bếp, thì liền chạy hồng hộc vào trong đấy. Ông nép sát gần cái bếp, bên cạnh cái nồi cơm đang bốc khói nghi ngút, miệng lẩm bẩm cầu cho bà Ích sớm về với ông, rồi cầu cho là cái bóng ma kia sẽ giống như mọi lần mà buông tha cho ông.

Bên cạnh ông, cái nồi cơm sôi lên ùng ục, bốc ra những thứ mùi khó chịu. Ông Hoài mở nắp nồi, rồi nom vào bên trong thì chỉ thấy một lớp mốc meo xanh đỏ ở bên trên miệng nồi, ở dưới thì vẫn đang sôi ùng ục những thứ cơm nhão nhoét.

Ông Hoài kinh tởm quá, muốn lợm giọng, vội đóng lại cái nắp nồi rồi ngồi co ro một góc bếp, miệng khấn vái mong rằng mình sẽ qua cái đận này đêm nay.

Ở giữa sân, thì xác của con Ki đã nằm xõng xoài, người nó cứng đơ như khúc gỗ. Dù nó đã chết những từ miệng nó bọt mép vẫn không ngừng trào ra bên ngoài.

Ông Hoài tỏ vẻ mệt nhọc, khoanh chân ngồi xổm, tay bắt chéo qua đầu gối, ôm chặt cái đầu gối cho đỡ sợ. Mắt ông nhắm lại đờ đẫn, ngồi cạnh bếp gio lửa cháy nóng rực mà vẫn có cảm giác rét run.

Một lúc sau, ông mở mắt lơ đãng nhìn ra ngoài sân muốn ngắm nhìn lại hình bóng con chó tội nghiệp của mình. Ông lập tức hoảng hồn kêu lên thất thanh những âm thanh sợ hãi, vì đã tự lúc nào, xác con Ki đã không cánh mà bay. Trên nền sân chỉ còn vương vãi thứ bọt mép của nó trào ra khi nãy.

Vậy con Ki đã đi đâu rồi? Không lẽ nó còn sống?

Nghĩ đoạn ông vừa mừng vừa nghi, nhưng vẫn cố gọi:

- Ki... Ki...

Nhưng đáp lại ông vẫn chỉ là cái tiếng âm thanh im lìm của màn đêm.

Ông vừa đói vừa sợ, lại vừa mệt, chỉ còn biết nép sát vào cái vách tường gắng sức nhắm mắt lại muốn chợp mắt ngủ một lát.

Khi ông vừa thiu thiu ngủ, thì lại nghe thấy thứ âm thanh sột soạt gần bếp lửa. Ông vội mở mắt, thì liền nom thấy con Ki đang sục cái mõm vào trong cái nồi cơm thiu sôi ùng ục mà tợp tợn. Cái nồi cơm thoáng cái bị con Ki liếm cho sạch bay, mặc dù cái nồi to như thế, cho dù là cơm chín ngon lành thì cũng phải ba người ăn thì mới hết, vậy mà nó lại ăn không còn chút gì.

Ông Hoài chợt mừng, vì thấy con Ki vẫn còn sống. Chỉ có điều ông lại luôn thắc mắc, là vì sao cái nồi đang sôi ùng ục lên như thế kia mà con Ki vẫn có thể chõ mõm vào ăn được, nó không sợ bị bỏng sao? Nước nồi sôi như thế thì thịt nhúng vào có mà chín tái cả ra.

Ông toan quay qua gọi tên nó, thì chợt thấy con Ki thoắt cái quay về phía ông, nó nhe răng gầm gừ tợn. Mắt nó đen láy như mắt cái hồn ma kia, răng nó nhe ra miệng vẫn không ngừng trào bọt mép đầy kinh tởm. Nó sủa tợn rồi hướng về phía ông mà càng sủa hăng.

Ông Hoài quát lên:

- Ki... ra ngoài kia, không được lại gần tao!

Nhưng những câu nói của ông dường như không có hiệu quả, con Ki vẫn tiến lại gần ông nhe răng đầy dữ tợn, rồi bất chợt nó liền chồm tới muốn táp cái mõm kinh tởm của nó vào mặt ông.

Ông Hoài chỉ kịp thét lên một thứ âm thanh hoảng sợ rồi lăn vào ngất lịm.

Tạt!

Một thứ chất lỏng mát lạnh dội lên khuôn mặt ông Hoài khiến ông nhanh chóng tỉnh lại. Ông mở mắt ra thì liền lập tức la thất thanh:

- Ki, mày điên rồi...

Ông ngơ ngác nhìn quanh, thì liền thấy bà Ích đang đứng trước mặt ông, trong tay bà đang cầm cái gáo nhỏ. Hẳn là vừa rồi chính bà đã tạt lên mặt ông một gáo nước lạnh, khiến cho ông tỉnh lại.

Ông Hoài hoàn hồn, nhìn lại thân xác mình mới thấy không mảy may xước xát gì mới cảm thấy yên tâm. Sau đó ông liền hỏi:

- Con Ki nó đâu, nãy rồi nó định giết tôi đây bà có biết không?

Bà Ích gật đầu thở dài nói:

- Phải, nếu tôi không về đúng lúc thì giờ này ông chẳng nằm trong cái áo quan rồi!

Ông Hoài hỏi:

- Thế nó đâu?

Bà Ích trỏ tay ra ngoài sân nói:

- Nó được cô Thêm với thằng Cường chôn ngoài góc vườn kia kìa. Vừa nãy thằng Cường nom thấy thế thì phải vội lấy đá ném vỡ đầu nó rồi mới cứu nổi ông đấy. Gớm thật...

Ông Hoài thở dài, rồi lại ngước ra ngoài sân thì thấy vết máu vương vãi khắp nơi, vết máu ấy hẳn là của con Ki rơi lại. Ông chỉ thương con Ki, chết đi rồi mà vẫn bị hồn ma sai khiến về hại ông. Ông lại quay sang nhìn bà Ích rồi hỏi:

- Bà có mời được cô Thêm qua không? Rồi cô có nói cái gì không?

Bà Ích ngồi xuống cái bệ cửa thở dài nói:

- Có, tôi có mời được! Khi nãy tôi qua còn chưa nói được câu nào, mà cô vừa mới nom thấy mặt tôi, thì đã tỏ kinh sợ. Còn gọi ngay thằng cháu Cường lấy xe rồi hối tôi đưa cô qua bên này. Nhìn sắc mặt cô thì còn hoảng hơn cả vợ chồng mình!

Ông Hoài cảm thấy hơi lạ, không biết bà Thêm vì sao lại có cái thái độ ấy, nhưng cũng chỉ gật đầu cho có lệ, đứng lên phủi bụi quần áo.

Lát sau, từ chỗ góc vườn, có hai người đang lùi lũi đi về phía gian bếp. Một bà già chừng bảy mươi tuổi là bà Thêm, một người thanh niên chừng mười chín tuổi là thằng Cường. Cả hai người đều là họ hàng bên đằng ngoại của bà Ích.

Bà Thêm vừa bước đến mép cửa, đã dùng giọng nạt to:

- May mà tao nhanh trí, không thì sang muộn tí nữa là thằng cháu Hoài về chầu tổ tiên rồi!

Bà Ích quay sang nhìn bà Thêm, lễ phép nói:

- Cô ơi, cô giúp cháu với, chứ giờ mà cứ thế này thì vợ chồng cháu đến chết mất thôi!

Bà Thêm chau mày rồi nói:

- Tao nói thật, vợ chồng mày là gặp quỷ rồi chứ chẳng phải là ma cỏ thông thường đâu. Vì chỉ có quỷ mới có khả năng sai khiến được linh hồn đã chết mà thôi. Khi con Ki nó chết, nó bị sai về giết thằng Hoài chứ chẳng phải tự dưng mà nó làm vậy!

Bà Ích hỏi:

- Vậy tụi con phải làm cách nào hả cô?

Bà Thêm nói:

- Con quỷ này nó khôn lanh lắm, nó vốn là ma da chết đuối ở dưới giếng. Nhưng mà vì giết quá nhiều người nên hóa thành quỷ, có khả năng đặc biệt thoát khỏi được nơi nó chết. Giờ muốn trị được nó thì khó lắm, nhưng muốn thoát không cho nó hại thì vẫn còn có cách, chỉ có điều cách này thất đức lắm vợ chồng mày có làm nổi không?

Ông Hoài liền hỏi ngay:

- Là cách gì hả cô?

Bà Thêm ngừng một lúc nghĩ ngợi, rồi mới gắng sức thở dài nói ra:

- Dùng một người khác chết đuối thay ở dưới giếng, rồi chịu chung nghiệp quỷ với nó. Trong thời gian ấy, chúng mày bỏ làng mà đi, thì may ra mới giữ được mạng sống. Con quỷ này nó liên quan đến nghiệp kiếp của thằng Huy, nếu có thằng Huy ở đây thì may ra mới giải được. Nhưng giờ nó lại không có ở đây nên chỉ còn cách ấy. Mà tao nói trước, nếu như làm cách này, thì sau này cho dù thằng Huy có trở về thì cũng không thể nào hóa được nổi nghiệp quỷ. Chúng mày chỉ còn cách vĩnh viễn rời khỏi cái làng này thôi...

Ông Hoài run giọng hỏi:

- Vậy chứ nếu không làm theo cách ấy thì hả cô?

Bà Thêm chợt trợn mắt nói:

- Vậy thì chỉ trong vòng mấy hôm là hai vợ chồng mày sẽ chết, mà nó còn kéo theo cái nghiệp tang trùng tang kéo hết cả người trong dòng họ nhà mình chết theo. Mày muốn như thế à?

Ông Hoài bà Ích rùng mình hoảng sợ không dám nghĩ đến. Bà Thêm dọa xong một chặp rồi lại dịu giọng nói:

- Cũng đâu nói là chúng mày phải giết người thế mạng, chỉ cần nghe theo lời cô thôi. Lấy một cái quần, một cái áo hoặc một vật đeo, mặc tùy thân của người chết thế thân, để cô làm lễ, rồi sau đó quẳng thứ ấy xuống cái giếng nơi con quỷ đã chết. Khi ấy chúng mày chỉ cần cuốn gói đi khỏi làng là xong...

Bà Ích không hiểu liền vội hỏi:

- Làm như thế nghĩa là sao hả cô?

Bà Thêm hơi liếc xéo nhìn bà Ích rồi nói:

- Con quỷ ấy sẽ làm việc còn lại, nó bị tao làm phép nên chỉ chú ý đến người chịu cùng nghiệp quỷ của nó mà thôi, sau khi nó giết được người ấy thì nó mới để ý đến việc khác. Nó bị phép che mắt nên trong thời gian ấy hai vợ chồng nhà mày có thể trốn được. Hiểu chưa?

Bà Ích không dám nghĩ thêm, chỉ dám bấm bấm móng tay vào thịt đến mức đau rát như để kiểm chứng mình không nghe lầm. Bà nghĩ đi nghĩ lại thì cái việc làm ấy sao mà thất đức quá, bà không làm nổi, cho dù có là không giết người, nhưng mà cũng là gián tiếp hại người. Ông Hoài thì ngồi ôm đầu suy nghĩ, rồi lại quay qua nhìn bà Thêm rồi nói:

- Thôi cô ạ, cô cứ về bên nhà trước đi, rồi để vợ chồng chúng cháu suy nghĩ xem thế nào đã!

Bà Thêm cao giọng:

- Không phải suy nghĩ gì hết, việc này là việc họ việc hàng, liên quan đến mạng sống của nhiều người, nào đâu có phải việc chúng mày quyết cho được. Thằng Cường đâu, nghe theo lời bà, từ dày mày phục ở đây, tìm người thân thiết với thằng Huy ngày trước, rồi trộm quần áo của người ấy đem qua cho bà, nghe rõ chửa?

Thằng Cường cúi đầu bối rối hỏi:

- Dạ thưa bà, tại sao lại phải tìm người thân thiết với anh Huy ạ?

Bà Thêm giải thích:

- Con quỷ này ngày trước quen thân với thằng Huy, nếu bà tính không nhầm thì là nó với thằng Huy phải có duyên nợ gì nặng lắm. Con quỷ này là con quỷ cái, nó hay ghen tuông lại lụy tình. Nên phải tìm một người thân thiết với thằng Huy, lại là đàn bà con gái đôi mươi, ít tuổi hơn thằng Huy càng tốt. Cái người ấy sẽ khiến con quỷ ghen tuông mà vật chết người ấy chịu nghiệp quỷ giống nó, bị nó sai khiến. Có như vậy thì phép của bà mới linh, mày hiểu chưa?

Thằng Cường gật đầu vâng dạ, rồi từ hôm ấy ở dịt bên nhà ông Hoài không đi. Cơm nước gì là ông bà cũng phải lo cho nó tất, cứ như ông trẻ trong nhà. Vì chính bà Thêm đã có nhời, là thằng Cường sẽ làm thay việc thất đức cho hai vợ chồng ông Hoài, cho nên hai người phải chăm cho nó như là ân nhân.

...

Nửa tháng sau.

Bà Ích rầu rầu ngồi trước nhà, mắt dõi xa xăm. Mấy đêm liền bà thức trắng không ngủ được, vì cứ mỗi khi bà đặt lưng nằm xuống chợp mắt, là lại có giọt nước tanh hôi từ đâu nhễu xuống, khi bà bàng hoàng mở mắt ra thì thấy có bóng người con gái, mở hai mắt to đen láy trợn trừng nhìn bà. Sau đó liền biến mất trước mặt bà như chưa từng có vậy.

Được mấy lần bà thử đặt lưng xuống giường để ngủ thì đều xảy ra tình trạng tương tự. Bà hãi quá, nên mấy đêm nay đều thức trắng, chỉ canh canh lúc ban ngày có chợp mắt tranh thủ được lúc nào thì hay lúc ấy.

Giờ này đang là buổi trưa, thường thì bà Ích lại chuẩn bị tranh thủ đi ngủ để hồi sức. Vì ban ngày quỷ không có xuất hiện, nó chỉ có hiện về vào ban đêm.

Mà đúng lúc bà định đứng lên từ cái chõng trước nhà, quay đầu đi vào buồng trong. Thì liền có tiếng con gái vọng đến từ cái cổng ngoài sân:

- Cô Ích, cô Ích ơi!

Bà Ích đờ đẫn, ngoái cái cổ quay đầu lại. Thì liền phát hiện ra người ấy là Huyên, người cháu gái hàng xóm cũ của bà. Năm nay Huyên mười sáu tuổi, bước vào cái tuổi dậy thì nên Huyên có nhiều thứ thay đổi so với trước đây. Cách đây bốn năm, Huyên vẫn thường lẽo đẽo bám theo Huy. Ngày ấy Huyên chỉ là một cô bé ngây thơ, nhưng giờ cô trông đã ra dáng thiếu nữ lắm. Mái tóc cô dài đen huyền, mũi dọc dừa, môi hồng đỏ xinh trông rất xinh đẹp.

Sở dĩ gọi Huyên là cô cháu gái hàng xóm cũ, là bởi vì năm ngoái cô đã chuyển khỏi căn nhà cạnh căn nhà ông Hoài, ra đầu làng, gần giếng làng Thượng, để tiện bề cho việc làm ăn của ông Phúc bố của cô.

Cô vẫn thường thi thoảng tới lui thăm bà Ích, coi bà như mẹ và luôn hỏi thăm tin tức về Huy. Dẫu rằng đã bốn năm trôi qua, nhưng cô không sao có thể quên được người anh trai ấy, cái người đã suốt ngày bao bọc cô khỏi sự chòng ghẹo của đám bạn.

Thường thì tuần nào cũng thấy Huyên lui tới một lần, khi thì có món gì ngon ngon mới nấu được là cô sẽ đem qua một phần để biếu bà Ích, khi thì sang thăm bà rồi chăm hộ bà luống rau, xào ruộng.

Nhưng kể từ hai tuần nay Huyên không sang, không biết vì lý do tại sao. Mà bà Ích vì lo nghĩ lắm chuyện không đâu, lại bị ma ám nửa tháng nay nên cũng không nghĩ được. Lúc này bà vừa nom thấy mặt Huyên thì liền mừng rỡ lắm. Bà toan chạy ra mở cổng cho Huyên vào, nhưng chợt và nghĩ đến chuyện gì đó, sắc mặt liền chuyển sang hoảng hốt. Bà chạy đến gần sát cánh cổng, dùng giọng thì thào nói chuyện với Huyên:

- Huyên, con mau đi đi, đừng ở lại đây, nghe lời cô, cô xin con!

Bà vừa nói, vừa lấm lét nhìn vào trong nhà.

Trong nhà, có tiếng lịch kịch từ cái giường gỗ ở ngoài gian khách, có tiếng thằng Cường ngáp dài, rồi có tiếng dép loẹt quẹt chạm xuống nền đất. Tiếng bước chân, tiếng dép lê càng vang dần ra phía cửa nhà.

Bà Ích hoảng lắm, bà cố gắng đẩy Huyên đi rồi nói với vẻ khẩn thiết:

- Cô xin con, con đi đi, hôm nào cô sẽ qua nhà tìm con, đừng ở đây lúc này, nghe lời cô đi con...

Huyên không hiểu, cô cứ ngơ ngác vì sự xua đuổi của bà Ích. Rồi chợt cô đăm mặt lại suy nghĩ, cô kiên quyết gạt tay bà Ích ra rồi nói:

- Không, con không đi. Cô có chuyện gì giấu con phải không, cô có chuyện gì thì cô phải nói cho con biết, cô không được giấu con. Kể từ ngày anh Huy đi, cô chú già cả không ai chăm sóc. Con nợ anh Huy nhiều, nên phải trả, con có nghĩa vụ phải lo cho cô chú. Cô chú không được giấu con đâu...

Huyên nói xong liền túm lấy tay bà Ích, gạt tay bà ra rồi tự mở then cửa cổng đi vào sân. Bà Ích rơm rớm nước mắt, khóc tu tu van nài Huyên:

- Huyên ơi cô xin con, cô coi mày như con cái trong nhà nên mới nói vậy. Mày mà có mệnh hệ gì thì sau này cô chú biết nói thế nào với thằng Huy đây hả con?

Huyên nở nụ cười tươi rói, cô nói:

- Đấy nhé, cô chú nhận con làm con rồi đấy, chỉ chờ anh Huy nữa thôi. Anh Huy về rồi cô chú cho con làm con dâu của cô chú nhé!

Bà Ích gật đầu, nằng nặc nói:

- Con muốn gì cũng được nghe Huyên, chỉ cần con nghe cô, về ngay đi, đừng chần chừ thêm phút nào ở đây nữa...

Bà Ích vừa nói vừa khóc, Huyên lại càng lắc đầu:

- Không được, cô càng nói thế thì con càng thấy chuyện này không đơn giản. Cô chú gặp chuyện khó thì con phải giúp, con là con dâu của cô chú mà...

Huyên tinh nghịch nháy mắt, cô e hèm vài cái thật đáng yêu, rồi dựa theo cái ánh mắt hoảng loạn của bà Ích. Tìm ra cái hướng mà bà không muốn cô đi tới nhất, chính là gian khách.

Tiếng thuốc lào rít long sòng sọc vang lên ở trong nhà, có thứ âm thanh hát ngân nga tởm lợm giọng đàn ông, giọng của thằng Cường.

Thằng Cường nghe tiếng nhí nhéo bên ngoài, cũng hiếu kỳ lắm, nhưng vẫn thèm hơi thuốc lào nên phải rít xong một bi thì mới tính ra dòm.

Khi nó đang rít thuốc lào, chợt thấy Huyên bước vào.

Thằng Cường mở to hai mắt tròn xoe, nó nhìn thấy một cô cái xinh đẹp, chắc kém tuổi nó. Nên cũng chỉ gật gù hỏi dò:

- Cô là?

Huyên toan tự giới thiệu, thì bà Ích đã hồng hộc chạy từ sân vô trong nhà, sau đó giới thiệu thay cho Huyên, bà nói:

- Ôi nó là đứa cháu hàng xóm ấy mà, tính nó ngoan hiền, từ trước đến nay hay qua nhà giúp cô! Hôm nay nó qua đây để chăm hộ cô cái luống rau ở vườn sau đấy...

Cường gật đầu, cũng tỏ vẻ không quan tâm cho lắm. Vì suy cho cùng Huyên cũng chỉ là hàng xóm của bà Ích, chắc sang đây có chuyện gì đấy.

Nhiệm vụ của Cường được bà Thêm giao, là tìm kiếm người con gái thân quen với Huy. Người ấy vẫn chưa xuất hiện, Huyên tuy cũng là con gái, nhưng không phải là đối tượng mà Cường cần quan tâm nên gã cũng chỉ mặc kệ. Cường đoán rằng phải lâu lâu nữa thì chắc hẳn sẽ có một vài người bạn của Huy qua hỏi thăm, khi ấy Cường có thể dựa vào manh mối ấy mà điều tra ra một đối tượng thích hợp cho bà Thêm.

Cường tuy là anh em họ với Huy nhưng từ nhỏ đã ở khác huyện, vốn hai anh em ít chơi với nhau, nên cũng không rõ bạn bè của nhau có những ai. Thậm chí từ nhỏ đến lớn, ngoài việc lễ tết đến nhà nhau chúc vài câu, thì Cường chưa bao giờ gặp Huy riêng ở ngoài.

Chính vì vậy tình trạng của hai anh em rất xa cách, Cường cũng không biết rõ mối quan hệ của Huy. Bằng không chỉ cần Cường biết một chút manh mối thôi, là gã đã hành động từ lâu rồi.

Nhìn Cường với bộ dạng trịch thượng, lại còn là phận cháu mà dám nói với bà Ích như vậy. Huyên hơi tỏ ra bực mình, cô nói:

- Cô Ích, việc gì mà cô phải ăn nói thưa gửi với anh ta như vậy, anh ta đâu có đáng!

Rồi cô lại nhằm thẳng mặt Cường mà hỏi:

- Anh nói đi, anh là ai? Tại sao anh lại ở đây, có phải anh đang bắt ép cô Ích hay không? Tôi nói cho anh biết, từ khi anh Huy đi khỏi đây, hai cô chú không có người chăm nom đã rất khổ sở rồi. Người già cả như vậy mà anh cũng không buông tha, tôi đã hứa với anh Huy là chăm sóc cho hai cô chú. Anh mà động đến hai cô chú, là không xong với tôi đâu...

Cường toan châm đóm rít thêm bi nữa, thì liền trợn mắt ngoái đầu nhìn Huyên.

Gã buông cái ống điếu thuốc lào xuống, đặt lại vô bô. Rồi quay sang nhìn Huyên hỏi dồn:

- Cô có quen biết với anh Huy?

Huyên chống tay vào hông, hơi hất mặt vẻ bất mãn, nét mặt cô yêu kiều nói:

- Đúng! Cô chú còn nhận tôi là con dâu nữa đấy nhé, anh mà bắt nạt cô chú là không xong với tôi đâu...

Huyên nói được nửa chừng, thì bà Ích đã choáng váng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Bà Ích khi ngã xuống còn thều thào một câu:

- Con...

Rồi mới bất tỉnh hẳn.

Huyên ngơ ngác không hiểu chuyện gì, vội chạy tới đỡ bà Ích, hoảng hốt lay gọi bà:

- Trời ơi, cô Ích, cô làm sao thế này?

Rồi Huyên quay sang nhìn Cường dùng giọng quát nạt nói:

- Anh nói đi, anh là ai? Hay là đòi nợ thuê, nếu anh thiếu tiền thì tôi sẽ nói với ba mẹ tôi trả tiền cho anh, việc gì phải ép uổng cô chú như vậy?

Cường cười, gã xua tay nói:

- Không không em hiểu lầm rồi, anh là cháu họ của cô Ích, chứ nào có chuyện đòi nợ thuê gì đâu. Chắc cô sợ mất con dâu, nên không muốn em vào nhà, sợ anh tán tỉnh em, rồi em theo anh mà bỏ anh Huy nên mới làm vậy đấy!

Huyên bĩu môi nói:

- Hừ, người như anh mà cũng muốn tôi theo sao?

Huyên không cho là đúng, cô xoay qua xoa ấn đường, bấm thái dương lay lay cho bà Ích tỉnh lại.

Lát sau, hai mắt bà Ích chậm rãi mở ra, bà nhìn thấy Huyên thì chỉ biết lặng lẽ khóc rồi thở dài. Còn Huyên thì vẫn xoa bóp cho bà, cô nói:

- Trời ơi cháu còn tưởng là cô giấu cháu chuyện gì, thì ra là cô sợ mất con dâu đấy. Cô yên tâm đi, con mong làm con dâu của cô còn chẳng được, chỉ cần anh Huy vẫn quý con như hồi còn nhỏ, thì có dù người ta có buộc dây thừng trói con con vẫn về với cô mà!

Huyên nháy mắt, cô nở nụ cười sáng, hai chiếc răng khểnh duyên dáng nhếch lên sau làn môi đỏ hồng. Khuôn mặt xinh đẹp như hoa của cô khiến cho Cường cũng phải lặng cả người. Cường thầm tặc lưỡi cảm thấy tiếc hận, một phần tiếc hận vì số Huyên sinh ra đẹp người những có lẽ sắp yểu mạng, một phần tiếc hận là vì sao một người con gái đẹp như vậy lại yêu thích Huy, anh họ của gã.

Cường thở dài, nhìn bà Ích ngất đi thì cũng hiểu được phần nào. Có lẽ bà Ích sợ Cường sẽ ác độc ra tay hại người con gái này, nên mới cố sức ngăn cản Huyên vào đây. Cường cũng cảm thông cho suy nghĩ của bà, nhưng suy cho cùng thì Cường vẫn phải làm theo lời bà Thêm. Thời gian càng để dài, con ma kia sẽ giết chết hết hai ông bà. Đến lúc ấy thì bà Thêm cũng không cứu nổi, mà cả mạng Cường khéo cũng nguy to.

Vậy cho nên khi vừa biết tin Huyên chính là đối tượng mà gã đang tìm bấy lâu, thì Cường có vẻ có phần mừng rỡ còn nhiều hơn cả tiếc hận. Chờ nửa tháng trời nay thì gã cũng có ngày thu hái được thành quả.

Mỗi ngày gã ở đây đối mặt với hồn ma mà sợ phát khiếp. Có hôm gã đi ra giếng vục mặt xuống vại nước cạnh giếng rửa mặt, khi gã nhấc khuôn mặt mình lên, thì từ trong bóng nước, gã có thể nhìn thấy một bóng người con gái lập lòe đang nhòm xuống phía gã, từ ngay cái cây nhãn sau lưng gã. Cô ta ngồi trên cây, chăm chú nhìn gã bằng đôi mắt đen kinh khủng. Ánh nhìn chòng chọc khiến gã gai người đứng chôn chân.

Mỗi ngày trôi qua thì hồn ma ấy tra tấn những người trong nhà như một cực hình. Cường có cảm giác đôi hôm nữa thôi, là cả ba người trong căn nhà này sẽ không thể chịu nổi thêm nữa, dù con quỷ không giết người, nhưng cũng khiến cho người ta phải kiệt sức mà ngã gục.

Chính vì vậy, gã tiều tụy từng ngày, lòng gã nóng như lửa đốt không sao kìm được. Trong đầu gã chẳng nghĩ được việc gì khác ngoài việc phải tìm được người chết thay cho vợ chồng ông Hoài.

Gã mười chín tuổi, cũng trai tráng hừng hực, thấy gái xinh là cũng phơi phới lắm. Thế nhưng vì mấy hôm nay nghĩ nhiều, mà chính cái lúc Huyên bước vào, cô xinh đẹp như thế mà gã cũng chẳng thèm bận lòng.

Huyên đỡ bà Ích vô buồng nằm nghỉ, rồi mới quay ra phòng khách nói chuyện với Cường:

- Thế anh ở đây có việc gì? Anh nói anh là cháu trai của cô, mà từ trước tới nay tại sao tôi chưa từng nhìn thấy anh nhỉ?

Cường cười, gã nói:

- Anh sống từ nhỏ ở huyện bên kia, ít khi qua đây lắm. Đến hồi nhỏ hai anh em anh cũng ít chơi với anh, thì làm sao mà em biết được!

Huyên hơi cong cong môi, tỏ vẻ khó hiểu, cô nói:

- Rồi thì anh qua đây có việc gì? Tôi đoán là anh có việc gì đấy nên mới khiến cô Ích phải bận lòng đến như vậy?

Cường lắc đầu nói:

- Không hề, đúng như anh vừa nói khi nãy, chỉ có lý do ấy thôi!

Huyên lại lắc đầu không cho là đúng, cô nói:

- Không phải, lý do ấy đơn giản quá. Cô Ích thương tôi tôi biết, nhưng lý do ấy chưa đủ để khiến cho cô ấy làm như vậy đâu!

Cường hơi nghiêng đầu rồi hỏi:

- Vậy em thử đoán xem, là tại sao?

Huyên nói:

- Chắc chắn anh là kẻ đòi nợ thuê rồi!

Cường đảo mắt suy nghĩ một hồi, việc của gã là giờ phải làm sao mới có thể lấy được một phần quần áo của Huyên giao cho bà Thêm. Suy nghĩ một lúc, gã chợt chuyển giọng nghiêm mật:

- Thôi được rồi, anh đành nói thật vậy! Anh chính là đòi nợ thuê đây, cô Ích nợ ông chủ anh số tiền mấy chục triệu, mà không trả được. Nên mấy bữa nay anh phải ở dịt bên nhà cô chú không đi, chờ khi nào lấy được tiền thì ông chủ anh mới cho về...

Huyên nghe xong liền tròn mắt, cô vân về đầu ngón tay rồi suy nghĩ. Nhà cô làm nông, mấy chục triệu tuy không lớn nhưng cũng là to lắm. Cô nói:

- Vậy để tôi cố tìm cách xoay cho anh, mà tôi cũng cảm thấy lạ. Anh Huy từ hồi đi du học, hay gửi tiền về cho cô chú trang trải lắm mà, cũng đâu đến nỗi túng thiếu. Mà bình thường thì cô chú có tiêu gì đến tiền đâu mà lại nợ lớn thế được?

Cường tỏ vẻ rầu, thở dài rồi nói:

- Lẽ thường thì chắc đúng là như vậy! Nhưng đợt rồi chú Hoài vay ông chủ anh ít tiền để trồng vụ cam, chú mua cả cái vườn rộng mấy mẫu ở làng bên để trồng cam. Mà rủi sao mùa vụ đen quá, cam trồng chưa lớn mà giống chết sạch. Chú thua lỗ trắng tay, nợ cao quá mà không trả hết. Thú thực với em, ông chủ anh là người cho vay nặng lãi, nếu là vay thông thường thì còn chờ anh Huy gửi tiền về được. Chứ còn thì bây giờ lãi mẹ đẻ lãi con, lịch thanh toán lại gấp, nên chú Hoài mới đâm ra suy nghĩ đấy. Em thấy chưa, cô Ích mặt cũng tiều tụy thế kia cơ mà...

Mắt Huyên long lanh, rưng rưng nước hai hàng, cô nói:

- Hay để tôi qua nhà hỏi mượn bố tôi tiền, anh đừng làm khó cô chú ấy nữa, tội lắm!

Cường gật đầu nói:

- Được rồi, em giúp được cô chú ấy gấp thì anh cũng mừng. Em cứ cho cô chú ấy vay tạm rồi trả nợ cho đứt lãi, rồi sau anh Huy gửi tiền về trả em. Cũng không đi đâu mà thiệt...

Huyên gật đầu, mắt cô dần chuyển sang thiện cảm, nhìn Cường nói:

- Cũng may anh không giống ông chủ của anh, là người thấu tình đạt lý, chứ không thì...

Cường cười, gã tỏ vẻ thân thiện nói:

- Em yên tâm đi, anh là người tốt mà, rồi nhà em ở đâu, để anh qua lấy luôn cho tiện. Chứ anh ở bên này mệt người mà cũng tội cô chú lắm, cô chú cứ nhìn thấy mặt anh mà lại lo!

Huyên nói:

- Nhà tôi ở đầu làng, giờ thì anh đi theo tôi. Qua nhà gặp bố tôi để lấy tiền thử xem...

Huyên ngây thơ khờ dại, cô bước đi dẫn đường cho Cường đi theo. Còn Cường thì âm thầm nở nụ cười lạnh vì con cá đã sa lưới. Gã theo Huyên về nhà cô, trên quãng đường còn liên tục trò chuyện quan tâm, tỏ vẻ rất tử tế khiến Huyên yên tâm.

Về đến nhà, cô đã thấy ông Phúc đang đăm chiêu ngồi tính toán sổ sách gì đấy, đang nhập hàng kiểm hàng.

Hôm Phúc từ ngày chuyển ra ngoài này, buôn bán cũng khấm khá nên có của ăn của để. Nhà cửa cũng trang hoàng hơn xưa.

Ông Phúc đang tính toán sổ sách, chợt thấy Huyên dẫn một người đàn ông lạ tiến tới thì liền đặt sổ sách xuống đất, chợt hỏi:

- Huyên, ai thế hả con?

Huyên trỏ tay chỉ về phía Cường, giọng bẽn lẽn nói:

- Dạ đây là anh Cường...

Ông Phúc tỏ vẻ hơi bực mình, ông hơi nghi, có lẽ nào đây là là người yêu của Huyên. Con bé mới có tí tuổi đầu, mà đã dính vào yêu đương, vậy thì ông phải đánh cho què chân.

Đoạn ông hỏi:

- Rồi thì sao, nó có liên quan gì tới con?

Huyên sợ ông Phúc hiểu lầm, liền vội lắc đầu xua tay nói:

- Dạ không, anh Cường liên quan đến cô chú Hoài...

Huyên nói nửa chừng lại ấp úng, ông Phúc phải gằn giọng:

- Cô chú Hoài làm sao?

Huyên cúi đầu nói:

- Dạ cô chú ấy thiếu tiền người ta, giờ túng lắm, cần tiền gấp. Bố có tiền trả giúp cô chú ấy qua đận này đi bố, tội nghiệp cô chú ấy lắm!

Ông Phúc ngẩn người, chợt hiểu ra đôi chút, liền quay sang nhìn Cường rồi hỏi:

- Vợ chồng ông Hoài mượn tiền của cậu hả?

Cường lắc đầu xua tay vờ giải thích:

- Dạ không phải mượn tiền của cháu, mà là của ông chủ cháu!

Huyên ghé miệng sát tai ông Phúc nói nhỏ:

- Ông chủ của anh ta, là phường vay nặng lãi đấy bố. Bố trả giúp chú Hoài, rồi ít hôm nữa anh Huy gửi tiền về trả bố sau...

Ông Phúc suy nghĩ, rồi thở dài, lát sau gật đầu hỏi:

- Thôi được rồi, vậy vợ chồng ông Hoài nợ cậu bao nhiêu?

Cường gãi đầu gãi tai, tỏ vẻ khó xử rồi nói:

- Dạ cũng không nhiều, chỉ khoảng bốn mươi triệu thôi ạ!

Ông Phúc hoảng hốt, miệng thét lên:
- Cái gì? Những bốn mươi triệu?

Bốn mươi triệu có thể coi là số tiền toàn bộ gia sản mà ông tích cóp được. Ông Phúc nào có thể giao cả gia sản của mình ra, để trả nợ cho một gia đình hàng xóm được. Ông lắc đầu nói:

- Không được, cậu về đi. Tưởng nếu vài triệu bạc thì tôi còn giúp được, chứ mấy chục triệu như thế thì...

Huyên cúi gằm mặt, cô cũng bứt dứt lắm, lại xuống giọng năn nỉ ông Phúc:

- Hay là bố trả cho người ta vài triệu, thư thư tiền lãi cho vợ chồng chú Hoài, rồi thì anh Huy gửi tiền về trả nốt số còn lại?

Ông Phúc ngồi im ngẫm nghĩ, rồi quay qua hỏi Cường:

- Cậu nghĩ thế nào?

Cường đưa tay vê cằm, rồi gật đầu nói:

- Cũng được, nhưng cháu cần vật làm tin, như vàng bạc gì đó thì mới được. Ông chủ cháu thích những thứ ấy thì mới thuận, bằng không thì khó lắm...

Ông Phúc gãi đầu khó nghĩ, nói:

- Vàng bạc thì tôi tạm thời không có, hay là...

Ông chợt quay sang hỏi Huyên:

- Có phải con có đôi bông tai mẹ mới mua phải không? Hay là lấy ra đỡ tạm đi con?

Huyên ngẫm nghĩ, hai mắt chợt tươi sáng reo lên:

- Vâng đúng rồi, con giờ mới nghĩ ra. Đôi bông tai ấy con gói trong cái khăn quàng cổ của con, để giờ con lấy ra đưa cho anh ta...

Cường nghe thấy vậy thì liền mừng rỡ, như vớ được vàng, gã còn chêm thêm cho chắc chắn:

- Phải rồi, như thế cũng được. Mà em cho anh mượn nguyên cả cái khăn ấy nhé, không để vàng riêng nó lại rơi mất!

Huyên vui quá, cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều nên gật đầu đáp ứng ngay. Cô chạy vào trong buồng của mình, rồi lấy ra một cái bọc, bên trong là chiếc khăn lụa quấn kĩ. Cô mở chiếc khăn lụa ra, đưa cho Cường kiểm chứng. Cường nhận lấy mở ra nhìn đôi bôi tai cho có lệ, rồi gật đầu vội nói:

- Thế này được rồi, thôi cháu đi đây. Chỗ này đủ tiền lãi cho hai tháng, hai tháng tới chắc cô chú Hoài sẽ có tiền trả cho ông chủ cháu, nên chú với cả em đây không cần phải nghĩ ngợi gì nhiều đâu!

Cường lại quay sang nhìn Huyên nói:

- À còn cái khăn này của em thì em cho anh mượn tạm nhé, quấn tạm đôi bông tai cho nó đỡ rơi ấy mà. Nay mai anh lại trả...

Huyên tin tưởng ngay, cô gật đầu đồng ý mà chẳng nghĩ ngợi gì.

Sau đó, Cường liền hối hả đi tới nhà bà Thêm. Căn nhà ở huyện Yên Mỹ, tại thôn Ốc Nhiêu, căn nhà tọa lạc ngay gần bến sông. Nơi ấy có hàng dài người dân xếp đứng chờ vào nhờ bà Thêm làm lễ. Từ ngày bà lập điện thờ chúa, có lắm người muốn dựa hơi bà mà cầu chuyện tài lộc, đường tình duyên, nên cửa bà lúc nào cũng thịnh hương khói lắm. Bà Thêm còn được mệnh danh là bà chúa cao tay trong vùng về việc trừ tà ma quỷ ám, khiến khí số làm ăn được thịnh vượng.

Cường bước đến cửa điện, chẳng chờ xếp hàng đã xông thẳng vào trong. Bà Thêm vừa nom thấy bóng Cường, thì đã vội chồm dậy, đuổi ngay cái người đang ngồi thờ điện chờ bà làm lễ ở dưới ra ngoài. Rồi lệnh cho mấy đứa ở là giải tán hết đám đông, ngày hôm này bà không làm nữa.

Dáng bà Thêm lòng khòng, điệu như một bà già ốm sắp chết. Tóc mai dụng hết, mái tóc bạc trắng. Bà dùng giọng khàn khàn hỏi Cường:

- Thế nào rồi, rồi mày tìm được người nào như tao nói không?

Cường gật đầu, vui vẻ nói:

- Dạ có tìm được, còn đem cả vật về cho bà đây!

Nói xong Cường xòe tay đưa ra tấm khăn lụa, bà Thêm nheo mắt, rồi chợt chồm tới vồ lấy tấm khăn lụa. Giọng bà ta vui mừng nói:

- Phải rồi, tốt lắm, họ nhà mình được cứu rồi! Cái khăn này tao vừa nom là đã thấy nó hợp khí số, mà làm phép bỏ bùa là linh lắm!

Bà Thêm trợn mắt rồi nói:

- Rồi nhà con bé ấy ở đâu?

Cường nói:

- Nhà cô ta lại ở ngay trước cái giếng làng bên ấy mới hay chứ bà!

Bà Thêm lẩm nhẩm, quay sang bấm bấm đốt ngón tay rồi mừng rỡ nói:

- Thôi đúng là vận số rồi, nhà nó ngay gần chỗ con quỷ chết! Vậy thì phép càng linh, chỉ dăm hôm thôi là thành!

Rồi bà quay sang nhìn Cường rồi hối:

- Mày phải hối vợ chồng thằng Hoài chuyển lên thành phố mà ở, rồi thì tiền nong gì tao lo tất. Nhắm luôn một căn nhà trên ấy cho vợ chồng nó đi, dăm bữa nữa tao gửi tiền!

Bà Thêm từ hồi lập điện, tiền bạc dư giả lắm, cho nên việc lần này bà vung không tiếc tay. Miễn sao cho xong chuyện là được.

Thằng Cường mừng rơn, qua nhà ông Hoài, thúc hai ông bà chuyển đi vì thủ tục đã xong rồi.

Bà Ích mắt rầu rầu, nhìn về hướng nhà Huyên mà khóc ròng. Sau hôm ấy thì gia đình bà cũng bị ép chuyển lên thành phố ở. Bà sau đấy cũng không còn biết tin tức gì trong làng nữa. Ít bữa sau hỏi dò bà Thêm, rồi mới tra ra được thân thế của con quỷ ám ảnh nhà bà chính là Yến, là người yêu cũ của Huy. Rồi từ đấy mới biết được ý nghĩa trong mảnh giấy, là vì sao lại có chuyện chữ có ghi "con dâu hiếu kính bố mẹ!" Chắc cũng là vì hồn ma của Yến hồi còn sống vẫn muốn được trọn vẹn chuyện tình với Huy, nên sau khi chết đi vẫn muốn làm liều.

Bà Ích không trách Yến, mà chỉ cảm thấy thương cảm cho số phận của cô. Rồi ngày Huy len lén về nước mà không báo cho bà biết, bà không ngờ là lại xảy ra cớ sự như vậy.

Lúc này đây, nhìn Huy xoa bóp cho ông Hoài, mà bà chỉ biết khóc ròng. Vì bà biết rằng, Huy đã vô tình vướng vào lời nguyền không sao dứt ra nổi. Hồn ma của Yến vốn đã hết cơ hội, vậy mà giờ đây nó lại có thể quay trở lại ám ảnh gia đình bà, chỉ vì một lỗi lầm của bà.

Bà chỉ tiếc hận cho số phận của Huyên. Vài tháng trước, bà có nghe tin Huyên đã chết, con bé chết thương tâm lắm, bị hồn ma của Yến quần đả dưới ao cho đến chết. Chính miệng bà Thêm kể lại, rằng Huyên bị hồn ma của Yến lôi xuống giếng mà giết, giống như bao người khác. Còn về việc tại sao lâu như vậy mà hồn ma của Yến mới hành động, thì bà Thêm giải thích rằng. Yến muốn trả đũa Huyên nên mới ám ảnh cô đến sống dở chết dở rồi mới giết.

Bà Ích thương cảm lắm, nghĩ đến Huyên mà chỉ muốn khóc, tội nghiệp cho cô. Huyên ngây thơ khờ dại, lại dễ tin người, tại bà, tại Huy mà cô phải chết.

Huy nghe xong câu chuyện của bà Ích kể, mà cũng bùi ngùi lạc giọng nói:

- Con thương Huyên quá, mà cũng không dám trách Yến, chỉ tại con thôi. Giờ con mà chết, để trả hết lỗi lầm cho Yến con cũng cam. Chỉ tội cho bố mẹ vì con mà phải trả nợ thay thôi...

Nói xong Huy gạt nước mắt, rồi quay sang hỏi:

- Nhà bà Thêm ở đâu? Mẹ có số của bà không để con gọi, phải có cách gì thì mới giải quyết được trọn vẹn đôi đường chứ?

Bà Ích thở dài nói:

- Ngày ấy bà Thêm cũng nói rồi, sau khi dùng cái cách cho con Huyên thế thân thì cho dù con có về cũng hết đường giải, phải chịu thôi con ạ. Số kiếp đến đâu hay đến đấy, ngày mai mẹ đi lễ chùa, mong sao cửa phật thanh tịnh, khéo lại giúp được phần nào!

Khanh khách!

Bà Ích đang nói, thì chợt có âm thanh cắt ngang. Cái bóng đèn điện phụt tắt, Huy hoảng hồn, anh vội hét lên:

- Yến, là Yến phải không em?

Không có âm thanh đáp lại, trong nhà đèn điện bị tắt nên không gian tối đen như mực. Thi thoảng bóng đèn lại lập lòe sáng lên cứ như trong bar. Huy cố dõi mắt nhìn, nhìn về hướng ông Hoài. Thì từ lúc nào, đã thấy có bóng người con gái, ngồi gần ông Hoài, tóc xõa, không rõ hình thù khuôn mặt. Cái lọn tóc đang thò vào trong cổ ông Hoài như một cánh tay, bịt kín lấy cổ ông.

Ông Hoài hua tay, muốn lôi lọn tóc ấy ra, nhưng lọn tóc ấy như một thứ vô hình mà tay ông không sao chạm được. Ông chỉ giãy lên, cố sức chống chọi muốn ngộp thở.

Huy gào lên:

- Yến, em tha cho bố anh đi, lấy mạng của anh đây này!

Anh lao đến ôm chặt ông Hoài, cố sức lôi lọn tóc từ cổ ông ra, đẩy cái thân người ngồi gần ông. Nhưng anh đẩy mãi mà chỉ đẩy vào khoảng không, cái thân người ấy vẫn ngồi đấy, lùi lũi như một thứ vô tri.

Rồi nó chậm rãi, dần dần ngửa cái đầu lên, lồ lộ dần ra cái khuôn mặt trắng bệch kinh tởm, đôi mắt đen vô hồn sâu hoắm. Lọn tóc dài đang dần vươn đến vuốt ve khuôn mặt Huy, nó khẽ thì thào nói:

- Anh Huy, đến gần em đi...

Giọng nói của Yến, nhưng lại có chút gì đó pha tạp của Huyên. Rồi cái hồn ma ấy lại chợt chuyển sang cười khanh khách, khuôn mặt vẫn là của Yến nhưng giọng lại của Huyên, nó nói:

- Anh Huy, em thích anh, sao anh không đáp lại tình cảm của em?

Huy gào lên:

- Huyên, là em đấy ư

19 0
Khánh Ly | Chat Online Report
Like nè =))
Nhớ trả bằng đánh giá 5 sao nha ><
2 0
Ziin Ziin | Chat Online Report
like này anh thiên
#Duật 
1 0
Nguyễn hoàng linh | Chat Online Report
@.@ like
1 0
Thảo Phạm | Chat Online Report
ủa đáng sợ zữ
1 0
T2P.Thaor | Chat Online Report
like nè
1 0
Người có hai chân | Chat Online Report
Like, trả he, thanks...
Uầy tối mờ còn đọc này chắc đập đầu du gối chớt, kinh hãi tột độ:((((((((((
#Cam_sợ_dyma
2 0
Phonggg | Chat Online Report
Tui thik đọc tr ma :>>> ..... Nhưng đừng ai dọa ma tui T_T
1 0
sc vlogs | Chat Online Report
thấy cũng hay
2 0
Bitch_♕ | Chat Online Report
Vãi chưởng! vừa dài vừa sợ. Mà chắc mị sợ hơ hơ, đọc mỏi vừa mỏi mắt vừa mỏi tay.
Like -> Trả
1 0
Bánh Tráng Sữa | Chat Online Report
Đang đọc và tự dưng thấy ảnh con ma.Phản ứng của T:/Uả,đm,làm tao hết hồn,sợ muốn rụng lồn hà/
0 0
Xem thêm 10 bình luận tiếp theo
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:18:36
Chat Online
HỒN AI ĐÃ HOÁ QUỶ? - phần 1

Ngày Huy về làng sấm chớp đen kịt phủ đầy trời, mưa giông từng hạt trải quét qua, rơi nặng hạt, khiến cho anh phải tấp xe máy vào lề để trú mưa.

Huy trầm ngâm mặc chiếc áo tơi, rồi mau chóng lên xe máy phóng ga đi tiếp.

***

Sau khi tốt nghiệp đại học Oxford của Anh quốc, Huy trở về nước và nhanh chóng được mời vào một công ty xuất nhập khẩu cỡ lớn để làm việc.

Xuất thân từ một chàng trai làng, nên dù chỉ mới tốt nghiệp hết cấp ba nhưng Huy đã đạt được học bổng toàn phần và được đi du học. Việc ấy khiến cho Huy rất tâm đắc, vì anh là người đầu tiên trong làng đỗ được đại học, hơn nữa không những là đại học thông thường, mà còn là một trường đại học danh tiếng số một số hai của ngoại quốc.

Sau khi về nước được mấy ngày, Huy lập tức sắp xếp một chuyến đi về quê cũ. Chẳng là vì từ khi Huy đi du học, cả nhà Huy đều đã chuyển lên thành phố ở, căn nhà cũ ngày xưa của gia đình Huy hiện đã bỏ hoang. Huy lại tạm thời chưa muốn về thăm bố mẹ, mà trước hết anh muốn về quê một chuyến để thăm lại miền đất cũ, ôn lại chút ít hồi ức kỉ niệm của ngày xưa. Dẫu gì, nơi mình sinh ra và lớn lên, vẫn là nơi thân quen gần gũi nhất, nó giống như một loại cảm giác người mẹ thứ hai của mình vậy.

Ngày Huy về làng sấm chớp đen kịt phủ đầy trời, mưa giông từng hạt trải quét qua, rơi nặng hạt, khiến cho anh phải tấp xe máy vào lề để trú mưa.

Huy trầm ngâm mặc chiếc áo tơi, rồi mau chóng lên xe máy phóng ga đi tiếp.

hon-ai-da-hoa-quy

Ở đầu làng thì kể từ sớm đã có các cụ trẻ, ông bà nội ngoại họ hàng của Huy đứng chờ sẵn để đón anh. Người nào người đấy đều nức nở rộn rã, mừng vui tự tán thán rằng họ nhà mình có phước có đức lắm mới có được thằng cháu tài giỏi như Huy vậy.

Họ hàng nội ngoại thân thích, nhân dịp Huy về thì mổ lợn mổ gà, thịt chó để thết đãi lẫn nhau. Cả cái sân gạch cũ trước cửa nhà Huy đều chật kín người. Căn nhà cũ của gia đình Huy thì kể từ lâu nay đã không còn ai ở, khắp nhà đều giăng kín mạng nhện, Huy huy động anh em họ hàng dọn dẹp, sửa sang lại toàn bộ để làm bữa cơm thân mật với họ hàng trong nhà cho chọn vẹn. Căn nhà ẩm mốc bụi bặm đã quá lâu, khiến Huy cùng với mấy người họ hàng phải mất cả một buổi chiều mới dọn dẹp xong để chuẩn bị cho bữa rượu buổi tối, nhằm việc thết đãi anh về làng.

Lần này về, Huy định bụng sẽ ở lại chơi dăm bữa nửa tháng, rồi sau đó mới trở lại thành phố để chính thức làm việc.

Bữa tiệc rượu thết đãi Huy kéo dài đến tận nửa đêm mới kết thúc, Huy đã say mèm, đến nỗi anh không còn biết chi nữa và chỉ kịp đóng cửa nhà lại, leo lên chiếc giường gỗ, muốn nhắm mắt ngủ sâu cho tới tận sáng.

Kể đến căn nhà này của gia đình Huy thì phải nói rằng, nó nằm ở một nơi rất thưa thớt người, chính xác là nằm giữa một cánh đồng, xung quanh nó là đồng không heo hút thẳng tăm tắp. Dưới cái vẻ heo hút ấy, lại càng khiến cho nó hoang vu tiêu điều ghê rợn đến đáng sợ.

Tiết trời tháng mười hai hơi âm u, trời se lạnh khiến Huy phải phủ một lớp chăn mềm đắp lên người thì mới cảm thấy dễ chịu để ngủ tiếp.

Trong lúc ngủ say, Huy bỗng mơ đến người con gái thuở niên thiếu mà anh từng thương nhớ. Tên nàng là Yến, là người con gái xinh đẹp nhất cái làng Thượng của Huy. Nhà Yến ở cách nhà Huy không xa, chỉ khoảng vài cánh đồng, và ở tận bên kia gần cái mép giếng làng.

Huy thầm tự nhủ, không biết sau bao năm mình xa xứ, Yến của ngày ấy bây giờ ra sao, sống thế nào và có ổn không?

Anh nhớ tới những đêm buồn bã, Yến thường cùng anh ngồi trước cái giếng làng để thủ thỉ tâm sự. Những chuyện chân trời góc bể, về miền viễn xứ ở đâu đấy. Và ngày ấy, chính cái giếng làng Thượng đã chứng kiến mối tình của đôi trẻ cho đến tận ngày mà anh đi du học.

Lại nhớ đến Giếng làng Thượng thì phải kể rõ rằng, nó to lắm, to đến bằng cả cái sân lớn ở đình chùa, mà thường ngày người dân làng vẫn hay giặt rũ ở đấy. Cũng phải lâu lâu thì hai người mới lẻn trốn thầy u ra ngoài để cùng nhau trò chuyện, hai người thường kể cho nhau nghe những điều mình biết về những đất nước xa xôi tận đẩu tận đâu. Đó là một ký ức rất đẹp khiến Huy nhớ mãi.

Yến của ngày ấy thường nói với Huy rằng, nàng thầm mong sẽ có một ngày nàng có thể bước chân ra khỏi cái đất làng Thượng này, nàng những mong ao ước của mình sẽ một lần thành sự thật. Còn Huy thì lại nghĩ khác, anh ước mình có thể giúp Yến thực hiện được những ước mơ thay cho nàng. Chính từ cái niềm ước ao ấy của Yến, đã khiến Huy nuôi dưỡng mầm mống tư tưởng du học lớn lên từng ngày, càng củng cố thêm cái quyết tâm khiến anh dành được học bổng để sớm thỏa ước nguyện và giấc mơ của cả hai người. Nhưng sau này, chỉ có Huy là người duy nhất thành công, còn Yến thì vì nhiều lý do nên phải bỏ lỡ việc học. Cho đến khi hai người chia tay, Huy vẫn không tin rằng chỉ có mình anh là người duy nhất đã làm đúng khiến cho cái ước nguyện năm ấy của hai đứa thành hiện thực.

Huy nằm mộng, tiếp tục nhớ về những xưa cũ, nhớ Yến và nhớ cả cái cảm xúc yêu thầm một người đầu đời. Anh mơ về Yến và mơ cả về những điều anh mộng tưởng, rằng hai người sẽ xảy ra chuyện gì, nếu như ngày ấy anh và Yến thành đôi thành cặp. Có lẽ, nếu điều đó thành sự thực, Huy sẽ chẳng bao giờ có thể bước chân tới đất nước Anh xa xôi, bởi vì đối với anh khi ấy, Yến đã là quá đủ để anh có một cuộc sống hạnh phúc đủ đầy ấm êm.

Trong lúc nửa mơ nửa tỉnh vì rượu, bên ngoài nhà gió chợt nổi mạnh. Cánh cửa gỗ cài then đã cũ, không lâu sau đã bị gió lùa cho rơi thanh cài then cửa, kêu lên những âm thanh lộc cộc.

Thanh cài then cửa rơi xuống, gió mạnh đập cửa thuỳnh thuỳnh khiến Huy giật mình tỉnh dậy. Anh lảo đảo ngồi thẳng rồi nhoài người đứng lên, nhặt lấy cái then cửa, quẳng sang một bên, lại lấy gạch chèn vào mép cửa gỗ cho thêm phần chắc chắn. Sở dĩ Huy làm thế là bởi vì khi ấy anh đã nhìn thấy then cửa gãy đôi do sức đập của gió quá mạnh, then cửa đã hỏng nên không thể dùng để cài cửa được nữa.

Xong việc, Huy trở lại giường và tiếp tục nhắm mắt ngủ sâu đều đều theo tiếng thở.

Nhưng anh chỉ kịp vừa đặt lưng lên giường, thì cái cửa gỗ lại bị gió lùa qua, vang lên những âm thanh "kẽo kẹt" đến rợn cả người.

Cót két! Cót két!

Bên ngoài, khe cửa hé một vách nhỏ đủ để cho gió lùa vào bên trong khiến Huy lạnh cóng.

Huy hơi bực mình lảo đảo đứng dậy, nhưng rượu đã ngấm đậm, khiến anh không thể điều chỉnh được nổi thân người mình, nó đang nặng trình trịch như thép đá và muốn ngã lăn xuống đất.

Vài phút sau đó, Huy đã ngả cả thân người xuống giường mặc kệ cho mọi chuyện xung quanh xảy ra. Mặc cho gió lùa đập mạnh cửa, Huy đã ngủ say giống như chết.

Trong giấc mộng say nồng, anh lại mơ màng nghĩ về Yến, thậm chí đôi lúc anh còn có thể tưởng tượng được rằng, đằng sau cái cửa gỗ đang bị gió đập thuỳnh thuỳnh kia chính là hình bóng của Yến, nàng đang giận hờn anh vì cái tội bội bạc đã bỏ rơi nàng sau bao nhiêu năm tháng.

Mắt anh nhắm chặt, chính anh cũng chẳng ý thức được rằng quả thực kể từ lúc nào đã có một đôi mắt dữ tợn âm thầm nhìn qua khe cửa, nhìn thẳng vào trong nhà, nhìn chằm chằm vào Huy không rời. Theo đôi mắt ấy, thì tiếng kẽo kẹt ghê rợn của cánh cửa vang càng mạnh, nhưng vì Huy đã bất tỉnh trong cơn say, vậy nên dù cho cánh cửa có kêu lớn đến như thế nào thì cũng không làm anh tỉnh dậy được.

Đôi mắt bên ngoài khe cửa dường như tuyệt vọng, nó chậm rãi nhắm nghiền lại rồi vội vã biến mất, ngoài cửa chỉ còn thấp thoảng một mái tóc đen dài mờ nhạt, đang bay lất phất.

Huy lịm đi hồi lâu thì gió cũng ngừng thổi, anh ngủ một giấc say sưa cho tới tận sáng.

...

Cốc cốc cốc!

Ngoài cửa chợt có tiếng gõ cửa mạnh vang dội vào trong nhà, Huy đang ngủ say liền giật mình tỉnh dậy. Đầu anh đau như búa bổ, hai mắt anh khẽ nheo lại để cố sức chặn đứng những tia sáng của ngày sớm.

Huy loạng choạng đứng dậy đi về phía cửa, kéo thanh chốt cài cửa xuống rồi dụi mắt nhìn quanh xem có ai không.

Dưới tiết trời sáng và âm u, gió lạnh hơi hiu hiu thổi qua, Huy tự nhẩm cái thời tiết này mà cũng có người mò qua đây làm gì không biết. Anh không biết là liệu có phải có con ma nào nó trêu mình vào giờ này hay không? Vì rõ là trời còn sớm mà, ngẩng lên nhìn đồng hồ thì mới chỉ có năm giờ sáng mà thôi. Giờ này người ta có dậy sớm thì cũng đi làm đồng chứ qua nhà Huy để làm cái gì?

Nhưng quả nhiên là có người, chỉ có điều không phải là ma quỷ nào ghẹo người cả, mà trước mắt Huy, chính xác là một người con gái độ chừng tuổi đôi mươi. Khuôn mặt trắng hơi ngả màu xanh xao như đang ốm bệnh, tuy vậy cô trông vẫn rất xinh đẹp. Cô hơi nở nụ cười nhìn Huy rồi gọi:

- Anh Huy!

Thoạt đầu Huy cũng thoáng ngạc nhiên, nhưng rồi khuôn mặt anh lại hiện nét mừng rỡ mà nói:

- Là Huyên! Huyên phải không em?

Người con gái lặng lẽ gật đầu, cô có chút bẽn lẽn nói:

- Vâng, em Huyên đây! Anh Huy đi xa bao nhiêu năm rồi mà vẫn nhận ra em cơ à...

Huy gật đầu dạt dào nói:

- Anh quên làm sao được, cái cô bé Huyên ngày ấy cứ suốt ngày lẽo đẽo theo anh ra ngoài ao đồng. Ngày ấy bé chỉ một mẩu như thế, vậy mà bây giờ đã trở thành một cô thiếu nữ xinh đẹp như thế này rồi đây!

Huy tít mắt cười, còn Huyên thì chỉ đỏ bừng mặt không nói được câu nào. Cô chợt nói:

- Vậy mà anh cứ để em đứng ngoài này mãi thế ư?

Huy gãi đầu gãi tai luống cuống nói:

- Ôi đấy, anh vô ý quá, mời em vào nhà... vào nhà ngồi chơi!

Huy kéo cánh cửa rộng mở, rồi vội kéo cái ghế gỗ siêu lệch nằm chỏng trơ ở giữa nhà vì bữa tiệc tối qua chưa kịp dọn lại cho ngay ngắn, lại đặt chiếc ghế cạnh bộ bàn ghế rồi mời Huyên ngồi xuống.

Huy nhìn Huyên thong thả nói:

- Em chờ anh một lát nhé Huyên, anh chạy ù đi đánh răng rửa mặt cho nó tỉnh táo, rồi anh em mình nói chuyện! Nhanh thôi...

Huy nói xong nháy mắt một cái thật điệu nghệ, rồi không chờ Huyên trả lời đã chạy ù xuống nhà dưới mất bóng.

Huyên hơi cúi đầu, nhẹ nhàng gật đầu, đôi mắt thi thoảng lơ đãng nhìn xung quanh căn nhà cũ của gia đình Huy chậm rãi chờ đợi anh.

Cô nhìn quanh căn nhà của anh thì thấy căn nhà đã sờn bức vách, đôi chỗ vữa rơi lả tả vì đã lâu rồi không có người chăm sóc, ngoài hiên nhà mấy thanh rằng đều đã bị mục nát sắp rơi xuống đất. Huyên chăm chú nhìn một lúc rồi chừng vì rảnh chân rảnh tay quá, nên Huyên lại bưng sẵn ấm trà dưới bộ bàn ghế lên bàn, đun nước pha một ấm trà để cho Huy uống buổi sớm.

Huy đánh răng rửa mặt xong, bước lên nhà trên thì đã thấy Huyên tỉ mỉ đong nước rót trà, cô giống như một người vợ hiền, với vẻ mặt mãn nguyện hạnh phúc đang chăm sóc chồng vậy. Huy vội vã nhìn qua, mà không biết rằng trong mắt Huyên từ lúc nào đó đã có một chút khát khao đối với anh, giống như cô đã lọt vào lưới tình mà chính bản thân mình cũng không hề hay biết.

Nhìn Huyên rót trà từ phía sau lưng, Huy lại nhớ đến cô bé Huyên của ngày trước.

Huyên của mười năm về trước chỉ là một cô gái độ mười tuổi, là cô bé hàng xóm con nhà chú Phúc. Thuở còn bé ở làng Thượng trẻ con nhiều lắm, nhưng không ai chơi với Huyên, chúng đều ghét bỏ Huyên vì Huyên là đứa con gái chú Phúc nhặt về nuôi chứ không phải con đẻ, lũ trẻ thường gọi Huyên là đồ con rơi. Chỉ có Huy là luôn luôn bên cạnh Huyên, bảo vệ cho cô, che chở cho cô suốt bao năm tháng, dẫu cho mọi lời dị nghị chê bai của lũ trẻ cùng trang lứa đến thế nào thì anh cũng mặc.

Cho đến ngày Huy chuẩn bị đi du học, đã sắp không còn ai ở bên cạnh Huyên để bảo vệ cho cô nữa, cô đã khóc hết nước mắt muốn giữ Huy ở lại, nhưng Huy chỉ xoa đầu cô và giỗ dành cô như một đứa em gái bé bỏng đang nhõng nhẽo. Và nói: "Sẽ có người thay anh chăm sóc và che chở cho em, đừng buồn nghe!"

Mười năm trôi qua, Huyên giờ đã lớn và trở thành một cô gái xinh đẹp được nhiều chàng trai trong làng theo đuổi. Nhưng Huyên nhớ lại tuổi thơ, ngày ấy chính những người này đã hắt hủi cô, còn bây giờ khi cô trở thành một người con gái trưởng thành xinh đẹp thì lại bám lấy mình như loài ong bướm thì không khỏi cảm thấy chán ghét.

Huyên chỉ nhớ duy nhất đến một người anh luôn luôn ở bên cô, bảo vệ cô mặc cho những lời chê bai dè bỉu của những con người xung quanh, người ấy chính là Huy.

Khi Huyên gặp lại Huy, cô đã không thể kìm được thứ cảm xúc suốt bao nhiêu năm tháng mà cô giữ trong lòng. Huyên thấy Huy so với mười năm trước đây đã chín chắn trưởng thành hơn rất nhiều, nhìn Huy như một người đàn ông phong trần từng trải, điều ấy có thể cuốn hút mọi cô gái trong độ tuổi của cô, và Huyên cũng không phải là người ngoại lệ.

Trước khi gặp Huy trở về, cô chỉ nghĩ và coi Huy trong kí ức như một người anh trai. Nhưng giờ thì khác, cô nhìn thấy Huy thì đã thay đổi cảm giác quá nhiều, quá khứ và hiện tại tương hợp, giống như một bức tranh hoàn toàn mới vẽ nên bởi kí ức và những gì hiện tại, tạo thành một bức tranh hút hồn người xem. Nó đã thay đổi quyết định của Huyên, cô muốn có được Huy, bằng mọi giá...

Huy sửa soạn xong mấy việc lặt vặt, đã nhanh chóng khoác lên mình một bộ quần áo dài chỉnh tề. Hôm nay, anh định đi gặp họ hàng nội ngoại để hỏi thăm sức khỏe các cô chú ông bà, nên phải tươm tất thì mới được. Nhìn Huyên rót trà, Huy lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế đối diện mà mỉm cười.

Huyên rót trà xong, chợt bắt gặp ánh mắt của Huy đang dõi theo từng cử chỉ của mình thì không khỏi xao xuyến.

Huy chợt cất giọng nói:

- Mới sáng sớm thế này mà đã qua nhà anh, chắc chú Phúc có việc gì cần nhờ anh hả?

Huyên gật đầu nói:

- Vâng! Chẳng là bố em nghe tin anh về, trưa nay nhà em lại có đám giỗ của ông ngoại, nên muốn mời anh sang phụ giúp ông!

Huy gật đầu nói:

- Ừm, cũng lâu rồi anh không gặp chú Phúc, nếu nhà có việc thì anh rất sẵn lòng qua ngay! Mà sớm qua đáng lẽ ra anh phải qua mời cơm chú Phúc đấy! Nhưng vì bận việc quá nên anh quên mất, chú Phúc không trách anh chứ Huyên?

Huyên hơi cúi đầu nói:

- Không đâu ạ, anh Huy giờ là người từ nước ngoài về, địa vị hơn hẳn những người trong làng, được anh Huy đến chơi, bố em mừng còn không kịp ấy chứ sao lại trách anh...

Huy bật cười nói:

- Cái con bé này, lớn lên mà mồm mép ghê nhỉ, đâu còn giống ngày xưa...

Huyên đỏ ửng mặt, miệng mấp máy:

- Vâng, ngày xưa...

Cô còn đang định kể lại chuyện ngày xưa, thì Huy đã chợt cất giọng nói:

- À phải rồi, ngoài việc bố em gọi anh qua ăn cơm thì còn việc gì nữa không?

Huy dáng vẻ hơi nôn nóng, bởi vì sáng nay anh còn hẹn gặp với vài ngoài bạn cũ ngoài xã đi ăn sáng. Anh muốn cùng mấy người bạn ấy ôn lại kỉ niệm thời học sinh. Trong túi của anh chiếc điện thoại đã rung lên báo hiệu cuộc gọi đến mấy lần khiến anh không khỏi sốt ruột, trong lòng nóng như lửa đó. Mà Huy đoán chừng Huyên ngoài việc ấy thì không còn việc gì khác, nên anh mới vội đánh tiếng hỏi dò như vậy.

Huyên vội vã xua tay nói:

- Dạ không, chỉ có mỗi việc bố em mời anh qua giúp thôi!

Huyên nhìn thấy Huy dường như có việc, cô cảm thấy mình thực là có chút vô duyên mà cảm thấy xấu hổ, nên chỉ nói chuyện qua loa với Huy vài câu, là cô cũng đứng dậy xin phép đi về.

Huy gật đầu, rồi tiễn Huyên ra ngoài cửa.

Sau đó Huy lên xe máy phóng xe ra thị tứ xã Ninh Kiều, ở đấy đã có ba đến bốn người bạn thuở cấp ba của anh chờ sẵn. Toàn là những người bạn thân thiết hồi còn thanh niên của Huy, sau khi Huy đi du học, những người ấy đều đã lập gia đình. Giờ chỉ có mình Huy là chân ướt chân ráo về làng, khác hẳn với bọn họ, chỉ có duy nhất mình Huy là độc thân, nên cả bọn quyết định gọi anh ra nhậu để ôn lại kỷ niệm là một việc, một việc còn lại là thúc ép Huy mau chóng lấy vợ để cả bọn sớm được uống rượu tiệc chia tay độc thân của chính anh.

Nghe tin Huy mới từ Anh quốc về, Tuấn, Sơn, Kiên và Duy là bốn người bạn chơi rất thân với Huy thời học sinh, đã họp nhau mời Huy đến quán ông Ba râu để cùng ăn sáng uống rượu ôn lại chuyện cũ. Còn thêm hỏi han tình hình thằng bạn xa xứ đã mười năm sống như thế nào, bốn người thuở cấp ba chơi thân với nhau lắm, chính vì vậy cho nên bây giờ sau cả chục năm Huy vắng mặt, mà tình cảm mấy người vẫn cứ như hồi còn cấp ba vậy.

Huy bước chân vào quán ông Ba râu, đã thấy Tuấn, Sơn, Kiên và Duy ngồi sẵn ở đấy từ lúc nào, nói chuyện cười đùa rất rôm rả.

Kiên ngồi đầu ngoài, đã nhìn thấy Huy đi vào thì liền reo lên:

- Chúng mày, thằng Huy cận kìa...

Kiến nói xong, cả bốn người đều quay đầu lại nhìn Huy, rồi đem cái biệt danh Huy cận của anh ra mà châm chọc cho bõ nhớ.

Chẳng là hồi cấp ba, mỗi người đều có một biệt danh, và cái biệt danh mà Huy bị gán cho lại là "Cận". Bởi vì hồi nhỏ anh bị cận, lại đeo cặp kính rất to nên mới bị gọi như vậy. Nhưng lớn lên rồi Huy đã được phẫu thuật mắt để trị cận nên không còn đeo cặp kính ấy nữa, còn cái biệt danh ấy đã đặt rồi nên nó sẽ gắn theo anh cả đời mất thôi.

Huy cười và chẳng thèm chấp lũ bạn này không giữ mặt mũi cho anh, vì dù sao nó cũng thuộc về một phần ký ức tuổi thơ, mà ký ức tuổi thơ thì ai cũng có, nó đáng được lưu giữ. Anh đặt mông ngồi xuống ghế. Trước mặt anh đã có một chén rượu bày sẵn, mồi còn chưa tới miệng, thì cả bàn rượu đã đều nhấc chén lên, bắt đầu là Tuấn cất giọng nói:

- Hôm nay nhân đây thằng Huy mới ở nước ngoài về, anh em mình mới có dịp hội tụ gặp nhau ôn lại chuyện xưa, thôi thì mình xin phép đồng khởi một chén đã nhỉ!

Tuấn nói xong thì liền hô hào mọi người cầm chén, rồi thúc Huy cũng cầm chén lên, lại rót cho anh một chén đầy, nói là vì anh ở nước ngoài về, thiếu rượu mấy năm nên so với những người còn lại lại càng phải uống nhiều hơn. Huy chỉ lắc đầu cười, đối với cái kiểu bắt rượu ở quê mình thì Huy sớm đã không lạ lẫm gì, anh chỉ biết cố gắng uống cho hết nhiệm vụ của mình.

Chén rượu nặng đổ vào miệng, chạy qua đến đâu là nóng cháy cổ họng đến đấy, Huy chỉ uống được nửa chén là mùi rượu đã xộc lên đến tận não say đến điếng người. Quả thật đúng là rượu Ninh Kiều, nổi tiếng rượu nặng nhất trong vùng, rượu này cho dù đem ra đốt nướng mực còn được nữa là, huống chi uống vào miệng thì sao mà lại không đến bỏng cả lưỡi.

Từng ngụm rượu nóng chảy qua cổ họng, đột nhiên Huy có cảm giác hình như là có một bàn tay mềm mại nào đó đang thọc vào trong cổ họng của anh, bịt kín nó lại, khiến anh nghẹt thở.

Mặt Huy đỏ bừng bừng vì rượu tắc ở cổ, bốn người bạn thấy anh mặt đỏ bừng thì chỉ nghĩ rằng chắc lâu rồi anh không uống rượu, nên gặp rượu nặng quê mình thì một chén đã say. Nhưng bọn họ lại không hề biết rằng, Huy đã bị ngộp thở trong cái giây phút ấy như người bị thắt cổ.

Huy cũng chỉ giấu giếm quay lưng móc họng chỗ rượu đang mắc ở cổ. Rượu chảy ra ồng ộc, đến nửa chừng thì đột nhiên lại hóa thành sợi tóc rất dài đen nhánh.

Huy giật mình thảng thốt ú ớ, khạc hết mớ tóc trong cổ họng. Anh kinh hãi vì những gì mình vừa nhìn thấy, thứ anh uống rõ ràng là rượu, nhưng sao bây giờ lại là tóc? Anh cố sức ói nốt chỗ tóc trong cổ họng ra, sau đỏ ngay ngắn ngồi thẳng dậy nhìn lại bãi nôn của mình thì lại thấy rõ ràng đó lại là một bãi rượu. Anh dụi mắt như không tin và cho rằng mình bị hoa mắt rồi, bốn người bạn của anh thì mải nói chuyện, nên không biết là Huy đã vừa nôn sạch chén rượu đầu tiên, chỉ liên tục thúc giục nhau gắp thức ăn vào bát.

Huy quay sang nhìn chén rượu vừa mới rót đầy, chợt cảm thấy sợ hãi mà không dám cầm đũa lên.

Lời nhắc của đám bạn cứ vang vang bên tai, khiến Huy không nhịn được lại phải cầm chén rượu lên đặt nhấp đầu môi, anh tự nhủ chắc là vì hôm qua uống rượu quá nhiều, đến hôm nay mệt mỏi lại thêm rượu nặng nên mới tưởng tượng ra những việc như thế.

Huy cố sức nhắm mắt nhắm mũi đổ chén rượu vào miệng và nuốt ực một cái nhanh chóng. Anh đã không còn dám làm theo cái thói quen uống ly rượu mà thưởng thức từ từ nữa...

Cảm giác của chén rượu lần này không giống như lần trước, bởi vì chén rượu lần này lại hoàn toàn bình thường, và không hề có chuyện gì kì lạ xảy ra. Điều đó làm Huy trở nên an tâm hơn và cho rằng vừa rồi mình vì quá mệt mỏi nên đã sinh ra ảo giác, anh lại tiếp tục vui vẻ cùng bốn người bạn uống hết bữa rượu sáng.

Cho đến hơn chín giờ, trời đã gần chuyển sang trưa, Huy đành từ biệt bốn người để về nhà, nhằm chuẩn bị trưa nay còn qua nhà ông Phúc chơi để giúp ông làm cơm.

Huy vừa về đến đầu ngõ, đã thấy ông Phúc đứng chờ trước cửa nhà từ lúc nào. Hai tay ông Phúc chắp trước người, bộ dáng khoan thai hơi mỏi mệt như đã đứng chờ sẵn từ lâu.

Huy dừng xe lại trước ngõ, dừng trước mặt ông Phúc rồi gọi:

- Ôi chú Phúc, chú đến lâu chưa?

Huy nghĩ rằng ông Phúc qua đây là muốn gọi Huy qua nhà làm cơm giúp ông, nên không đợi ông nói gì thì anh đã cất thẳng xe vào trong nhà, rồi mới chạy ra ngoài để tiếp cuộc trò chuyện. Thấy ông Phúc đang đứng ngoài cửa nhìn mình, Huy rôm rả từ xa nói tới:

- Hồi sáng cháu có việc trên xã, vừa rồi mới về kịp được. Đáng lý ra cháu phải qua nhà sớm để phụ giúp chú làm cơm mà chuyện xong muộn quá!

Ông Phúc sửng sốt, nét mặt ông thoáng co lại, trán hơi nhăn. Ông như muốn nói điều gì nhưng lại thôi. Ông chỉ gật đầu nói:

- Ừ, chú cũng định qua mời mày một tiếng, tiện thể nhờ mày qua giúp chú làm cơm đám giỗ...

Huy gật đầu vâng dạ, rồi qua bên nhà ông Phúc ngay.

Huy không hề nghĩ ngợi gì, nhưng ông Phúc thì lại khác, trong lòng ông thoáng cảm thấy ngạc nhiên bởi vì ông còn chưa sang mời mà sao Huy đã biết là ông làm cơm, lại còn biết là ông chuẩn bị nhờ anh sang giúp nữa chứ.

Nhưng ông Phúc cũng nhanh chóng gạt phăng cái suy nghĩ ấy đi, vì ông cho rằng rất có thể bà Thu Hoài vợ ông đã qua đây từ trước, từ khi bà đi chợ nên Huy mới biết tin. Vậy mà bà Thu Hoài về không hề nói với ông một tiếng nào, lại để ông vất vả qua nhà Huy thêm một chuyến nữa. Sau chuyện này, ông Phúc thầm nghĩ lúc kín đáo phải nhắc nhở bà Thu Hoài vì cái tật đãng trí mới được. Còn bây giờ có mặt Huy, ông cũng không tiện mắng nhiếc bà vợ của mình, vì dù sao Huy cũng là khách, chuyện trong nhà không nên để khách thấy vì rất mất mặt.

Huy cùng ông Phúc đi tới căn nhà xây khang trang ở đầu làng, chỗ ngay gần cái giếng làng mà ngày xưa người ta vẫn thường hay giặt rũ ở đấy.

Căn nhà của ông Phúc ở đầu làng, là kể từ sau khi Huy đi du học được ba năm thì mời xây nên. Chứ đáng nhẽ ra trước đấy, nhà ông Phúc phải là căn nhà kế bên căn nhà cũ của Huy bây giờ. Nhưng vì sau vài năm tích góp, ông Phúc đã mua được mảnh đất ở đầu làng cho gần đường quốc lộ để làm ăn. Rồi xây nhà ở mảnh đất ấy, bảy năm trước ông mới chuyển ra ngoài này, còn căn nhà cũ của ông Phúc cạnh nhà cũ của Huy bây giờ thì để không, thi thoảng cũng chỉ để làm kho cất thóc lúa hay để dự trữ phân bón cho mùa sau mà thôi.

Ông Phúc cùng Huy bước tới đầu nhà, thì đã thấy bà Thu Hoài cặm cụi làm việc gì đó ở trong bếp. Bà Thu Hoài chợt nhìn ra ngoài thì thấy Huy cùng ông Phúc đang bước vào trong nhà.

Bà Thu Hoài mừng rỡ kêu lên:

- Huy đấy hả cháu, trời ơi lâu lắm rồi cô không trông thấy mày!

Rồi bà vồn vã chạy ra nhà ngoài rót vội nước nóng vào ấm trà, dùng khăn trăng vắt trên cổ lau lau mồ hôi trên trán.

Ông Phúc thì thoáng giật mình, nghĩ lại cái chuyện hồi nãy ông chợt lẩm nhẩm:

- Nếu không phải bà ấy thì là ai...

Ông Phúc lẩm nhẩm trong miệng mà không người nào nghe thấy, bà Thu Hoài thấy ông phúc thẫn người như mất hồn thì chợt đánh tiếng nói:

- Ông còn đờ người ra đấy làm cái gì, xuống dưới bếp giúp tôi làm thịt mấy con gà nhanh lên cái xem nào.

Bà lại quay sang nhìn Huy rồi nói:

- Cháu cũng giúp chú một tay hộ cô nhé!

Huy gãi đầu gãi tai vâng dạ liên tục, uống nốt chén chè xanh rồi Huy cũng cùng ông Phúc xuống nhà dưới để bắt đầu cùng ông và bà Thu Hoài làm cơm.

Ông Phúc đứng dậy bước chân, mà trong lòng không sao nghĩ được sang chuyện khác. Chuyện hồi sáng ông gặp Huy ở đầu ngõ nhà cũ, rồi hành động vừa rồi của bà Thu Hoài vợ ông lại cho thấy rằng chứng tỏ trước đó bà chưa từng gặp Huy, nên mới có thái độ mừng rỡ như vậy. Vậy thì ai mới là người báo tin cho Huy biết, ông biết chắc rằng Huy là một người rất lễ phép lịch sự, nên không thể có chuyện không mời mà đến, vì tính Huy từ nhỏ thì ông Phúc đã được biết rõ.

Và điều quan trọng nhất khiến ông Phúc không thể không nghĩ ngợi được, chính là vì đêm qua ông đã nằm mộng, mà cái giấc mộng ấy thì nó có vẻ rất liên quan đến cái chuyện mà ngày hôm nay ông gặp phải.

Không hiểu sao, ông Phúc chỉ vừa bước được vài bước, thì chợt vấp ngã đến bịch một cái, rồi ngã lăn xuống dưới đất đập đầu vào tường nhà. Ông Phúc choáng váng nằm bệt dưới đất như người đã chết.

Huy lập tức tri hô:

- Trời ơi chú Phúc...

Giọng Huy ngắt quãng vì hốt hoảng, anh nhanh tay đỡ ông Phúc dậy.

Bà Thu Hoài đang cặm cụi lau dọn ở ngoài nhà thì nghe thấy tiếng Huy kêu cứu. Bà vội vã hớt hải chạy vào trong nhà nhìn xem rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra.

Ông Phúc bị ngã đập đầu vào tường, đầu ông bị xước một mảng chảy máu lênh láng. Bà Thu Hoài nhìn thấy cảnh ấy thì lập tức trách mắng chồng:

- Trời ơi, già cả nghễnh ngãng như thế đấy, chỉ khổ cái thân tôi phải chăm ông thôi...

Ông Phúc ú ớ nói:

- Rõ ràng tôi nhìn rõ đường rồi cơ mà, thế mà cứ như có ma nó ngáng chân tôi ấy bà ạ...

Bà Thu Hoài gào lên:

- Đi đứng bất cẩn chứ ma quỷ cái gì?

Rồi bà quay sang nhìn Huy và nói:

- Chắc ông ấy thấy mày về nên vui quá, đi đứng hấp tấp mà trượt chân. Đấy ngã vỡ cả đầu thế kia thì còn làm ăn cái gì...

Bà lại chép miệng, dịu giọng nói với Huy:

- Thôi giờ cô chỉ còn biết trông cậy vào mày, mày xuống làm thịt giúp cô nhanh nhanh sớm sớm mấy con gà, kẻo trưa rồi mà họ hàng người ta sắp đến, không có cỗ thì hỏng...

Huy thấy ông Phúc bị ngã, cũng hơi luống cuống chân tay. Nhưng xem chừng ông Phúc ngoài xước xát một ít trên trán thì cũng không việc gì, ông ú ớ đòi xuống làm cơm cùng Huy, mà bà Thu Hoài vì lo cho sức khỏe của ông nên cứ tống thẳng ông vào trong buồng, mặc cho ông có kêu gào như thế nào.

Huy xắn vội tay áo, rồi xuống nhà bắt gà trong chuồng, bắt đầu phụ giúp bà Thu Hoài làm cơm thết đãi họ hàng. Mà bữa cơm này mang tiếng là thết đãi họ hàng, nhưng chủ yếu là vì ông Phúc muốn làm cơm thết đãi Huy nhưng không tiện. Làm cơm bữa giỗ chỉ là cái cớ, cái chủ yếu là ông Phúc muốn mời Huy sang đây ăn cơm, để tiện bề sau này Huy lên thành phố, còn có thể giúp đỡ cho thằng con trai thứ hai của ông là thằng Tiền, năm nay vừa hết cấp ba đang chuẩn bị đậu đại học chứ ngoài việc ấy thì chẳng còn vì việc gì khác nữa.

Với khả năng của Huy làm trên thành phố, lại là người đi du học từ nước ngoài về, chắc hẳn không lâu nữa sẽ là người thành đạt. Ông Phúc vì toan tính trước những chuyện ấy, nên muốn nhân lúc Huy chưa phát triển sớm thì còn có thể kéo được mối quan hệ kết giao, rồi sau này nhờ anh kiếm việc làm giúp thằng Tiền là dễ dàng nhất.

Ấy vậy mà hôm nay, kể từ sau khi gặp Huy, ông Phúc cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như người mất hồn và chẳng làm được việc gì. Thằng Tiền thì đi học chưa về, trong nhà chỉ có hai ông bà già lo cơm nước đám giỗ mấy mâm thì không kịp, nên mới đành phải mời Huy sang phụ giúp.

Mà vừa nãy ông Phúc chẳng may lại ngã chảy cả máu đầu, nên việc làm cơm chỉ còn có Huy và bà Thu Hoài.

Huy đầu óc cảm thấy hơi lâng lâng, vì chỗ rượu hồi sáng vẫn còn đang ngấm ở trong máu của anh. Cầm con gà trên tay đã vặt trụi phần lông gà ở cổ, mà Huy vẫn ngần ngừ không dám cắt cổ nó. Anh luôn có một loại cảm giác, dường như không phải anh đang giết một con gà để cúng cơm, mà lại giống như đang nắm cổ một con người bằng xương bằng thịt và chuẩn bị cắt cổ họ đưa tiễn họ lên đoạn đầu đài một cách tàn độc.

Loại cảm giác ấy cũng chỉ thoáng qua trong đầu của Huy, nhưng cũng đủ làm Huy cảm thấy sởn da gà.

Xa xứ mười năm, đã lâu lắm rồi Huy chưa từng làm thịt gà, nên lần này chần chừ mãi mà anh vẫn chưa thể xuống tay. Cộng thêm cái cảm giác rờn rợn khi nãy, khiến Huy lại càng không thể quyết đoán được nhát dao trong tay của mình.

Huy ngừng lại một chút, lấy điếu thuốc lá trước túi áo ngực ra cho lên miệng châm lửa hút, lấy lại chút cản đảm. Rồi mắt bắt đầu cầm lấy con dao ngọn, nhè nhẹ chọc mũi dao nhọn xuyên qua lớp da vàng vọt của con gà trống. Từng âm thanh quang quác vang lên, con gà cố sức giãy giụa trong bàn tay rắn chắc của Huy mà không chống cự lại nổi.

Từng dòng máu đỏ tươi từ cổ con gà chầm chậm chảy xuống cái bát con nhỏ đặt ở dưới nền đất, cánh gà quạt bụi tung mù mịt hết cả mặt đất.

Con gà cố sức giãy giụa cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, đồng tử trong mắt nó dần giãn ra như một giọt nước thả xuống mặt hồ.

Huy thở dài một tiếng, ném con gà và trong chậu nước nóng, rồi hút tiếp điếu thuốc lá sau đó mới vặt lông, làm lòng gà.

Cả buối ấy Huy làm thịt được bốn con gà, tất cả đều là gà trống và không có bất cứ một con gà mái nào. Huy cũng cảm thấy có đôi chút kỳ lạ, bởi vì trong chuống gà của nhà ông Phúc, tại sao lại không hề có một con gà mái nào, gà con cũng không hề có, mà chỉ toàn là gà trống như vậy? Nhưng vấn đề ấy Huy cũng chỉ nghĩ một lúc, rồi lại tự lắc đầu cho rằng mình toàn tự hỏi vớ vẩn linh tinh mấy cái chuyện không đâu.

Làm thịt xong mấy con gà trống, thì mặt trời cũng đã đứng bóng, Huy vội xách mấy con gà đã làm thịt vào nhà đặt vào chiếc nồi nhôm to bằng cái thúng, hết lượt cả bốn con gà đều được sắp đặt ngay ngắn, chiếc cổ gà đều được dúi gọn xuống ngập nồi nước.

Huy toan đóng nắp nồi, thì một cảnh tượng kinh khủng hiện ra. Cái con gà trống anh vừa mới cắt cổ mới đây lại đang nghển cổ dậy kêu quang quác như một con chim lợn. Cái tiếng kêu của nó không phải là thứ âm thanh mà đáng ra giống loài của nó không nên xuất hiện.

Éc éc!

Huy giật mình, đôi bàn tay run run, anh vội vung ngay con dao cầm trong tay mà chặt vào cổ con gà.

Cái cổ con gà đứt phay bay vào đám gio bếp, mà miệng nó vẫn không ngừng kêu lên những âm thanh réo như tiếng chim lợn.

Được một lúc thì tiếng kêu của nó cũng dần im bặt, chỉ còn lại cái âm thanh lách tách của củi lửa bên dưới đáy nồi.

Trên mặt Huy thì giờ này đều đã lấm tấm mồ hôi, anh nhìn lại từ cổ con gà mà mình vừa chặt đứt đầu đang chảy ra những dòng máu đỏ tươi mà run rẩy. Chim lợn là giống loài được quan niệm là đại diện cho điềm hung của người Việt, mỗi khi chim lợn kêu lên, là báo hiệu rằng trong nhà có người sắp chết. Vậy liệu có khi nào, đây chính là một loại điềm báo hay không?

Nhưng rồi anh tự an ủi mình rằng vì vừa rồi con gà kia anh cắt chưa chảy hết tiết, nên nó mới vẫn còn sống, nó nghển cổ dậy chỉ là theo bản năng sinh tồn vì cảm nhận được nước trong nồi đang nóng lên mà thôi.

Nồi nước đã sôi ùng ục từ lâu, Huy nhanh chóng đóng lại nắp nồi, và cũng quyết định sẽ không kể cho ai nghe về những chuyện kỳ lạ mà ngày hôm nay anh gặp phải.

Sở dĩ anh quyết định như vậy là vì anh là một du học sinh từ nước ngoài về, là một du học sinh của một trong những nước có chủ nghĩa khoa học phát triển nhất, vì vậy cho nên những chuyện như ma quỷ thánh thần, đều là những điều nhất thiết tiên quyết mà chính bản thân Huy cũng không bao giờ được tin.

Ngoài nhà, đã có tiếng người râm ran nói chuyện, tiếng bước chân nhộn nhịp vang vào trong nhà. Huy có thể nghe thấy tiếng bà Thu Hoài đang chào đón quan khách họ hàng, và cả những tiếng nói chuyện cười đùa khách sáo.

Một lúc sau nữa, thì đích thân bà Thu Hoài, cùng với vài người cháu gái trong họ cũng chạy xuống bếp để phụ giúp đem lên những món ăn cho bữa rượu thịt họp mặt.

Theo sau bà Thu Hoài là hai người con gái, một người cao chừng mét sáu, một người cao chừng mét rưỡi, hai người đều có nét xinh đẹp của người con gái độ tuổi mới lớn. Cả hai nhìn thấy Huy thì rối rít chào hỏi, còn Huy thì chỉ thoáng mỉm cười và gật đầu một cái nhè nhẹ.

Bà Thu Hoài thấy Huy nhìn hai đứa cháu gái chằm chằm, thì như được biết ý liền giới thiệu ngay:

- Đây là cái Trinh, con chú Đạt, chú Đạt là con thứ ba của ông cụ bên nhà chồng cô. Còn kia là cái Dung, con bác cả...

Bà Thu Hoài giới thiệu xong, thì chợt nghĩ đến điều gì mà rơm rớm nước mắt lẩm nhẩm:

- Nếu như, nếu như không phải con Huyên nó...

Bà lẩm nhẩm đến đấy thì Huy cũng không nghe được thêm nữa vì tiếng bà đã quá nhỏ. Huy cũng không chú ý, vì anh đang nghĩ đến mấy chuyện hồi sáng mà tinh thần cũng chẳng tập trung được cho lắm.

Giữa buổi, ông Phúc đã có thể ngồi dậy và tham gia vào bữa cơm giỗ. Họ hàng nội ngoại nhà ông Phúc đông đến mấy mươi người, ngồi chật kín trong nhà rồi tràn cả ra ngoài sân. Bữa tiệc rượu hôm nay ông Phúc một là nhân tiện làm đám giỗ, hai là lấy cớ mừng thằng Tiền thi đỗ cấp ba với điểm cao. Nhưng trên hết là muốn mời Huy về đây để thuận tiện hỏi thăm tình hình của anh, và muốn nhờ cậy anh sau này ở trên thành phố giúp đỡ trông coi thằng Tiền cho ông. Vì ông Phúc luôn nghĩ rằng người xuất ngoại từ nước ngoài về, lúc nào cũng phải hơn con người ta một cái đầu, suy nghĩ chu toàn và độ tài giỏi là không phải bàn cãi, thằng Tiền chỉ cần được Huy coi trọng, thì sau này tương lai của nó hẳn là ông Phúc không cần phải lo nghĩ gì nữa.

Bữa rượu đến một hai giờ chiều mới tàn, mà trong bữa tiệc rượu ấy, Huy đã nhanh chóng làm quen thân thiết được với Trinh và Dung, để tiện thể hỏi thăm về những chuyện xảy ra trong làng mấy năm qua. Nhưng có một chuyện mà anh quên mất không hỏi, đó chính là chuyện về Yến, người Yêu cũ mười năm trước của anh, hoặc có chăng cũng là anh không muốn hỏi. Vì thế hệ của Trinh và Dung cách quá xa cái thế hệ của anh, nên hai cô gái này không biết cũng là điều dễ hiểu.

Bữa rượu tàn, Trinh và Dung ở lại phụ giúp bà Thu Hoài dọn dẹp cùng với Huy.

Dưới nhà Trinh rửa bát cùng bà Thu Hoài, thì ở trên nhà Huy và Dung ngồi cùng một chỗ nhặt nhạnh chỗ xương thừa rơi vãi dưới nền đất vứt đi. Nhân tiện Huy liền hỏi:

- Dung này! Hôm nay họ hàng bên nhà mình đều đủ cả, có cậu Tiền thì bận ôn thi trên thành phố rồi thì anh biết, nhưng còn Huyên hồi sáng anh có gặp, mà lúc nãy tại sao anh lại không nhìn thấy cô ấy đâu nhỉ? Bữa nay nhà người qua người lại nhiều quá, nên anh muốn hỏi chú Phúc mà không có tiện...

Huy nói đến nửa chừng, thì ánh mắt của Dung đã chuyển sang sợ hãi, cô hỏi ngược lại Huy:

- Anh Huy... anh nói... sáng nay anh gặp chị Huyên?

Huy cảm thấy ngạc nhiên, nhưng cũng gật đầu một cách chắc nịch nói:

- Phải rồi! Sao vậy em?

Dung nghe đến đây thì mặt mày tái xanh, miệng hơi run giọng khẳng định nói:

- Anh Huy, chị Huyên hai tháng trước... đã chết rồi!

- Chết rồi??

Huy giật mình, cả người anh giống như đang có một dòng điện nặng chạy qua khiến khắp cơ thể tê buốt và mất đi cảm giác, anh không dám tin vào lỗ tai mình và tưởng Dung nói đùa, anh hỏi lại vừa cười vừa nói:

- Em nói thế nào chứ rõ ràng là ngay buổi sáng hôm nay anh vẫn còn gặp cô ấy mà lại, cô ấy mặc cái bộ quần áo đi đồng, áo trắng, quần bà ba đen rõ ràng. Sớm nay cô ấy còn giúp anh pha trà cơ mà...

Dung nghe đến đây thì lắc đầu nguây nguẩy, không dám tin, cô thất thanh la lớn gọi bà Thu Hoài:

- Cô Hoài... cô Hoài...

Dung chỉ nói được hai câu là giọng đã tắt ngấm rồi lăn ra đất ngất đi vì sợ. Bà Thu Hoài cùng cái Trinh đang ở dưới bếp, nghe thấy giọng nói ngắt quãng của Dung thì vội quẳng bát đũa lại liểng xiểng không thèm thu dọn mà chạy thẳng lên nhà trên.

Ông Phúc ở buồng trong, mặc dù đang say rượu nhưng cũng siêu vẹo chạy ra ngoài xem có chuyện gì.

Bà Thu Hoài nhìn thấy Dung ngất giữa nhà thì vội đỡ cô ta dậy, lấy tay xoa bóp liên tục bấm vào huyệt nhân trung, rồi lấy tay tát tát mạnh vào má Dung cho cô tỉnh lại, miệng liên tục gọi cô. Rồi bà Thu Hoài lại quay sang hỏi Huy:

- Huy, có chuyện gì thế hả cháu? Sao cái Dung lại ngất đi thế này...

Đầu óc Huy lúc này đang ong ong không nghĩ được chuyện gì, miệng anh lẩm bẩm theo một cách không tự chủ được:

- Huyên! Huyên ơi em chết rồi, mà sao sáng nay anh vẫn còn gặp... Không, cháu không tin...

Huy hốt hoảng, tinh thần anh hoảng loạn.

Anh chẳng còn nghĩ được gì nữa và chỉ biết chạy nhanh về căn nhà giữa đồng của mình, vào nhà anh đóng sầm lại cánh cửa gỗ như muốn trốn tránh tất cả. Vừa kinh hãi, vừa đau khổ nhớ lại kí ức của một đứa em gái bé bỏng ở trong tiềm thức. Huyên, đã chết thật sao? Huy tự hỏi như vậy...

Nhưng những gì sáng nay anh gặp, rất chân thật, liệu có khi nào Dung vừa rồi nói đùa với anh. Anh tự vỗ đầu một cái cho là vì mình ngày hôm nay đã gặp phải quá nhiều chuyện kỳ lạ nên đầu óc lú lẫn rồi, làm sao một cái chuyện vô lý như vậy có thể xảy ra được cơ chứ.

Hồi nhỏ anh có nghe mẹ anh kể, là ma quỷ không bao giờ xuất hiện giữa ban ngày, và chúng nó chỉ là phần hồn thì không thể hiện hình thành người để làm việc như người thường. Ma quỷ khi hiện hồn thì chỉ nhát ma dọa người, chứ nào có giúp ai bao giờ? Mà Huyên sáng nay còn giúp anh pha trà, ma mà có thể pha trà ư, không thể như thế được.

Huy không tin, anh nhất định không tin, anh quyết tâm phải quay lại hỏi bà Thu Hoài bằng được mọi chuyện cho ra lẽ. Anh lập tức mở bung cánh cửa muốn xông thẳng hướng nhà ông Phúc để hỏi bà Thu Hoài.

Kẽo kẹt!

Nhưng anh chỉ đi được nửa bước, thì đã thấy bà Thu Hoài từ lúc nào đã đứng chờ sẵn ở ngoài cửa, bà cầm lấy di ảnh của Huyên bưng trước ngực, đứng ngoài nhà mà lau nước mắt liên tục.

Giọng Huy ngắt quãng:

- Cô, cô Thu Hoài...

Bà gật đầu không nói gì, mà chỉ lách mình bước vào trong nhà. Huy thẫn người, và cũng bước vào theo bà Thu Hoài, bà Thu Hoài đã có mặt ở đây, thì hẳn là bà đã chuẩn bị trước câu trả lời và giải thích cho Huy rõ ràng được mọi chuyện. Nên Huy chỉ lặng yên ngồi xuống ghế về nhìn bà Thu Hoài chờ đợi một câu chuyện thuyết phục chính mình.

Bà Thu Hoài ngồi xuống chiếc ghế ở giữa nhà, lau nước mắt liên tục sụt sịt nói:

- Cô nghe chú Phúc kể, là sáng nay chú chưa có qua báo tin mà con đã biết là cô chú mời con qua giúp cô chú rồi có đúng không? Lại còn con Dung nó nói...

Bà Thu Hoài nói đến đây thì chợt khóc òa lên mà không nói được gì nữa. Mặt Huy hơi tái lại, nhưng vẫn cố trấn tĩnh, anh nhìn di ảnh của Huyên trong tay bà Thu Hoài thì cũng đã đoán biết được vài phần. Và Huyên, có lẽ... đã chết.

Huy ngồi xuống ghế đối diện, nhìn bà Thu Hoài thở dài mà nói:

- Vâng, những gì Dung nói là thật, sáng nay con có gặp Huyên, và cô ấy còn bảo con rõ ràng là hôm nay nhà cô chú làm cơm, và chú Phúc sai cô ấy đến nhờ con qua giúp...

Bà Thu Hoài gật đầu nói:

- Đúng, chú nhà cô quả thật có nói những điều như thế, nhưng những điều ấy, là ông ấy nói với nó ở trong mơ, vừa rồi ông ấy còn mới kể với cô xong...

Rồi bà Thu Hoài tiếp tục sụt sùi khóc kể về cái chết thê lương của Huyên.

Huyên tuy là con nuôi của ông Phúc với bà Thu Hoài, nhưng kể từ lúc Huyên còn nhỏ, cả hai ông bà lúc nào cũng yêu thương Huyên như con đẻ. Thậm chí chăm nom chiều chuộng cô còn hơn cả bản thân mình, mặc dù nhà nghèo, nhưng lúc nào cũng chăm nom đầy đủ cho cô không thiếu một thứ gì.

Lớn lên Huyên trở thành một cô gái xinh đẹp, được nhiều người trong làng theo đuổi. Nhưng suốt bao nhiêu năm cô vẫn không yêu một ai, cô chỉ nói là cô chờ một người, mà không nói rõ người ấy là ai cả.

Hai tháng trước, trong một lần đi làm đồng về, người ta phát hiện ra xác Huyên chết ở dưới giếng làng, quần áo đều bị xé rách hết, toàn thân đều nổi trương. Qua giám định pháp y của cục cảnh sát xác định, Huyên chết là do bị ngộp nước và có dấu hiệu vùng vẫy chống cự rất mạnh, nhưng không rõ nguyên nhân cụ thể tại sao Huyên lại bị như vậy, và hung thủ là ai thì vẫn chưa điều tra ra được, tất cả chỉ là một dấu chấm hỏi.

Bà Thu Hoài kể xong thì giọng đã khàn đến khản đặc, không còn tiếp tục nói được nữa.

Huy cũng đã dần bình tĩnh lại, đối mặt với chuyện ấy thì không người mẹ nào mà lại không thương cảm cho được. Nhìn ra ngoài nhà và tưởng tượng về nét mặt của Huyên sáng nay, anh không nghĩ rằng hồn ma người đã chết lại chân thực đến như thế.

Tiễn bà Thu Hoài ra ngoài cửa, là Huy cũng quay trở lại nhà ngay, anh quyết định hủy bỏ chuyến thăm họ hàng ngày hôm nay để ổn định tinh thần, đồng thời sẽ lên kế hoạch sáng sớm mai trở về thành phố.

Qua chuyện của Huyên cùng với những điều kỳ lạ mà sáng nay Huy gặp phải, anh không còn muốn ở lại làng Thượng thêm một ngày nào nữa. Những điều ấy xảy ra khiến cho Huy cảm thấy cái làng quê thanh bình ngày xưa đã không còn, đây không còn là những gì mà Huy tưởng tượng trong ký ức, làng Thượng ngày nay không còn những con người của làng Thượng ngày ấy, nó đã không còn là miền đất đẹp.

Huy đóng cửa từ sớm, nấu nhanh bữa cơm xong là anh lập tức lên giường đi tắt đèn chính và mở đèn nhỏ để đọc sách.

Nhìn ra ngoài khung cửa, anh chợt nghĩ ngợi miên man về điều gì đó, trong tiềm thức của anh đột nhiên nhớ đến Yến, một nỗi nhớ đến cồn cào xé ruột xé gan.

Anh đột nhiên muốn thăm giếng làng Thượng, cái giếng đã chứng kiến cho tình cảm của anh và Yên ngày nào. Khung cảnh đêm khuya vừa lúc thích hợp rất giống với quang cảnh ngày xưa.

Huy bước chân xuống dưới giường, xỏ đôi dép vào chân, khoác vội cái áo khoác mỏng lên người rồi mở cửa ra đi bộ đến đầu ngõ. Hướng đến chính là cái giếng làng ở ngay gần nhà ông Phúc.

Nhưng Huy vừa bước ra khỏi cổng nhà được nửa bước, thì đôi bàn chân anh dường như không sao bước nổi. Giống như có một bàn tay vô hình đang níu giữ khiến anh không thể bước tiếp.

Gió đêm bỗng nổi mạnh, trong cái tiết trời tháng mười hai, đang đổ xuống lất phất những hạt mưa lạnh buốt.

Huy vội vã chạy quay lại mái hiên nhà để trú mưa, và cũng quyết định gạt phăng cái ý định ra thăm giếng làng Thượng một lần nữa.

Ngoài nhà trời trở đột nhiên quá lạnh lẽo, Huy lại chạy vào nhà đóng cửa lại rồi chui lên giường cho bớt lạnh.

Chiếc chăn lùng bùng ở góc giường, Huy thò nửa thân mình vào trong thì chợt cảm thấy tay mình dường như đang sờ phải một vật gì đó lạnh lẽo, lại ướt sũng.

Huy mơn man mò mẫm tiếp thì giật bắn mình, vì cái thứ ở trong chăn lại chính là một thân người. Một thân người bằng xương bằng thịt.

Anh vùng vằng nhảy xuống dưới đất cuống quýt muốn lao ra khỏi nhà.

Huy liên tục tự vỗ vào đầu mình, chắc có lẽ anh bị điên rồi, hồn ma nào có thể tồn tại trên đời, vì anh là người theo chủ nghĩa khoa học hiện đại, những chuyện ma quỷ không thể nào xảy ra được. Chắc chắn là do tinh thần anh không ổn định, không quen thủy thổ ở trong làng, mấy năm nay du học đã quen không khí ở nước ngoài, nên về nước sinh ra ốm bệnh mới có loại cảm giác như vậy.

Huy vỗ vỗ đầu thêm vài nhát nữa, rồi lật nhanh cái chăn ở trên giường mở ra. Và lần này quả thực là chẳng có người nào đang nằm trong chăn cả, điều đó chứng thực là vừa rồi Huy sợ quá nên đã tưởng tượng ra thân người nằm trong chăn mà thôi.

Huy đang tâm quay đi thì liền nghe thấy giọng nói thì thào ở đâu đấy, xen lẫn tiếng gió rít lọt qua khe cửa ở ngoài kia: "Anh Huy! Anh mau đi đi, chị Yến đến tìm anh đấy..."

Huy nghe trong tiếng gió xen lẫn mà cảm thấy rùng mình, rõ ràng là tiếng người, mà lại giống như là tiếng gió rít thành những âm thanh na ná giống như vậy. Hay là do chính Huy tưởng tượng ra chăng?

Huy lắc đầu nguây nguẩy không tin vào những gì mình mới nghe được.

Anh run sợ chui đầu vào trong chăn và cố nhắm mắt lại, mặc cho những gì xảy ra ở ngoài kia có như thế nào đi chăng nữa, hay dù trong chăn có xuất hiện thân người đi chăng nữa, anh cũng sẽ không cử động thêm một chút nào.

Ngoài cửa, gió chợt ngừng bặt, Huy ôm chăn trùm kín, thấy một lúc lâu không có chuyện gì nữa thì mới thò đầu ra ngoài nhìn quanh. Anh dần thở phào nhẹ nhõm, vì lúc này những thứ đáng sợ ấy đã không tiếp tục hiện lên nữa.

Nhưng Huy nghĩ đến cái âm thanh xen lẫn trong gió kia nhắc đến, là Yến? Yến nào? Liệu có phải chính là Yến người yêu đầu tiên của Huy, nếu là hồn ma của Huyên về nhắc nhở Huy, vì sao lại nhắc đến Yến. Anh suy nghĩ đến đây thì liền cảm giác được, dường như đằng sau những chuỗi chuyện ly kỳ xảy ra với anh ngày hôm nay, là cả một loạt những chuỗi sự kiện kinh khủng nào đó đáng sợ hơn nhiều sắp ập đến.

Huy lắc đầu, quyết định đi ngủ luôn, và ngày mai anh sẽ dành cả một ngày để tìm hiểu tình hình của làng Thượng trong những năm qua. Và trên hết anh phải biết được tin tức của Yến, người mà anh luôn nghĩ về suốt bao nhiêu năm tháng.

Hiu hiu!

Ngoài trời gió đã tắt dần, và Huy đã chìm sâu vào giấc ngủ.

Sớm hôm sau, khi Huy tỉnh dậy, thì bà Thu Hoài đã mang bữa sáng sang cho anh. Trong câu chuyện buổi sớm, bà Thu Hoài còn gặng hỏi rằng đêm qua Huy có mơ thấy điều gì không, bởi vì sáng nay ông Phúc kể rằng ông nhìn thấy Huyên đứng ngoài nhà Huy gọi vào mà anh cứ làm ngơ không trả lời. Bà Thu Hoài linh tính rằng, có khi nào Huy thật sự đã gặp Huyên vào tối hôm qua. Bởi vì bà nghĩ cũng giống như lần trước, khi ông Phúc mơ về đứa con gái, là cũng đúng với cái lúc Huy gặp Huyên.

Nhưng đáp lại bà Thu Hoài chỉ là câu trả lời không gọn lỏn của Huy, bởi vì quả thực hôm qua Huyên không xuất hiện, và cái âm thanh xen lẫn trong gió kia Huy không biết rằng liệu nó có phải là sự thật hay không, nên anh không thể dùng nó làm câu trả lời cho bà Thu Hoài được.

Hơn nữa, Huy cũng không tin thật sự là có ma, ai tin chứ đánh chết thì Huy cũng không tin.

Ma quỷ chỉ là thứ mà dân gian người ta ngụy tạo lên để lửa phỉnh những người nhẹ dạ cả tin rồi từ đó trục lợi cá nhân, chứ nào có chuyện chúng có thật.

Còn về những chuyện mấy ngày nay Huy gặp phải, thì anh luân nhất mực khăng khăng khẳng định rằng nó là ảo giác. Sau chuyến này, Huy phải đến bệnh viện Xanh Pôn một chuyến thăm người bạn cũ đang công tác ở đấy, để nhờ anh ta khám thử xem liệu có phải Huy đã mắc chứng bệnh về tâm thần nào đó hay không.

Tiếp tục qua câu chuyện của bà Thu Hoài, bà kể lể về những chuyện ma quỷ mà bà tin rằng nó có tồn tại:

- Hồi xưa á, bà nhà cô đi chiến tranh cũng có nhiều lần gặp hồn người quá cố rồi, chính bà còn kể cho cô nghe là trong một lần hành quân, bà đã gặp lại một người bạn cũ ngay sau khi cô ta chết được có hai hôm, người bạn cũ của bà mách cho bà rằng ngày hôm sau tụi Mỹ chúng nó thả bom, bà không tin, hôm sau bà được điều chuyển công tác sang đơn vị khác, và đúng cái lúc bà vừa đi khỏi đơn vị thì bom nó dội, trời ơi cả đơn vị mấy trăm người cuối cùng chết hết sạch, chỉ có một mình bà với anh lái xe là còn sống sót qua cái đận ấy...

Bà lại chép miệng kể tiếp nói:

- Kể từ hồi cái Huyên nó chết, ông Phúc nhà cô cứ bị ám ảnh mãi. Thế là cô nghe người ta kể gà trống nó át được vía người, lại khiến cho người đã chết không về ám ảnh được người còn sống, cô nghĩ là con Huyên nó giận ông Phúc chuyện gì đấy. Nên cô nghe theo, rồi từ đấy trong nhà cô chỉ nuôi có mấy con gà trống thôi, chứ còn gà mái là nhà cô bán hết cho cái bác hàng xóm. Cô thì mong là con Huyên nó kiêng kị mấy cái thứ ấy mà thôi tha cho ông Phúc. Rồi quả nhiên chú Phúc đỡ hẳn, ấy mà hôm qua ông ấy lại gặp con Huyên, chắc là vì cô giết hết các đám gà trống hôm làm giỗ, nên con Huyên nó mới tìm được về mà quấy quả ông Phúc nhà cô...

Huy lắc đầu nói:

- Cô Hoài ạ, cháu xin đính chính nhắc lại, cháu không hề tin rằng có chuyện ma quỷ tồn tại trên đời. Và khoa học cũng không hề chứng minh rằng có thứ nào như thế tồn tại cả, còn về chuyện hồi sáng, là vì cháu ngủ mơ nên chắc tưởng tượng ra vậy thôi chứ chắc chẳng phải Huyên nào về đâu. Cháu xin cô hãy nghe cháu một lần, rằng Huyên đã chết rồi, thì cô cũng hãy để cô ấy được yên nghỉ, dù sao thì cái chết của cô ấy cũng rất thương tâm. Đối với cháu, Huyên từ nhỏ đã được cháu coi như một người em gái, và sau này cũng vĩnh viễn không thay đổi. Huyên mất cháu cũng cảm thấy rất xót xa, nhưng người sống vẫn cứ phải tiếp tục sống, không nên để quá khứ ảnh hưởng mãi như vậy...

Nói đến đây Huy đã có chút đỏ mắt, nước mắt như muốn rơi xuống khi nghĩ đến hình ảnh của Huyên hồi còn nhỏ.

Nhưng anh chỉ vừa kịp dứt lời, tức thì cái di ảnh của Huyên đặt trên ban thờ mà chiều tối hôm qua bà Thu Hoài mang sang đột nhiên bốc cháy.

Di ảnh cháy từ phần áo cho tới miệng, đến phần môi của Huyên, đám lửa nhỏ vô tình biến di ảnh thành một bức ảnh hết sức ghê rợn. Môi của Huyên hơi vểnh lên như bất mãn, phần mắt của di ảnh cũng bị ngọn lửa xâm chiếm cháy lan rộng ra vừa đủ một con mắt rồi tắt ngấm, biến toàn bộ đôi mắt của Huyên trong di ảnh thành màu đen đáng sợ.

Bà Thu Hoài đang cúi gằm mặt nghe Huy phân tích, chợt thấy di ảnh bốc cháy thì lập tức rú lên, hai tay chắp lạy liên tục rồi xoa tay khấn vái lẩm bẩm trong miệng. Bà Thu Hoài châm vội nén hương vào cái bát hương ở ban thờ rồi khấn bái đến mấy lượt nữa. Lúc này, cái di ảnh của Huyên như cảm nhận được thành ý của bà, ngọn lửa dần dần dịu lại rồi tắt hẳn.

Huy nhìn tất cả mọi chuyện từ đầu đến cuối, hai bên thái dương đã bắt đầu nhỏ xuống những giọt mồ hôi chảy dài. Nếu thật sự anh bị một chứng bệnh tâm thần, vậy thì cái việc di ảnh bị bốc cháy vừa rồi là do đâu, mà nếu thật sự anh bị tâm thần, thì lẽ nào bà Thu Hoài cũng vậy. Những hình ảnh vừa rồi, là đồng thời cả hai người được chứng kiến, chứ không phải chi có riêng một mình anh.

Bà Thu Hoài khấn vái xong, khiến cho di ảnh ngừng bốc cháy, thì lập tức tiến đến bàn thờ ôm lấy di ảnh của Huyên vừa khóc vừa nói:

- Chắc cái Huyên nó không muốn ở bên này với cháu, nên thôi để cô đưa nó về bên nhà. Cô cứ nghĩ rằng nó về báo mộng cho cháu là vì hai đứa thân thiết với nhau lắm, nhưng xem ra không phải vậy...

Bà Thu Hoài nói đến đây thì có chút ấm ức, trách cứ vì những lời nói vừa rồi của Huy có chút động chạm đến tâm linh. Bà nghĩ rằng hẳn là do những lý do ấy nên Huyên mới tức giận, vì vậy bà quyết định không để di ảnh con gái mình ở bên nhà của Huy nữa.

Bà Thu Hoài ôm di ảnh bước ra cửa, rồi đi xa cho tới khuất bóng mà Huy chẳng thể nhìn thêm được.

Huy thở dài ngồi xuống ghế, cứ thẫn người như vậy cho đến đêm. Hai mắt anh nặng nề như muốn buông xuôi, rồi cụp xuống lúc nào không hay biết.

2 0
T2P.Thaor | Chat Online Report
like nhẹ^_~
1 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:11:50
Chat Online
DƯỚI ĐÁY GIẾNG HOANG - PHẦN 3

Chắc có lẽ, tôi phải thức trắng cả đêm nay. Thật không thể nào tin được những điều vừa mới xảy ra. Cho dù bản thân mình tận mắt chứng kiến. Những oan hồn lãng vãng, câu chuyện năm xưa đầy thê lương của cô ta, hình bóng của những con ma, con quỷ vẫn chập chờn, tái hiện trong trí óc… tất cả mọi thứ thật quá lạ lẫm và khó tin.

***

Mưa, đêm nay lại mưa nữa rồi. Từng hạt rơi xuống tí tách trên mái nhà, sấm chớp đánh vang liên tục, sáng tím cả một góc trời. Cây cối ủ rũ nằm ngã nằm nghiêng, tiếng dế kêu “rít rét” liên hồi. Gió thì lạnh lẽo miên man thổi vào nhà, len lách qua mọi ngõ ngách. Mang đến một màn khí ẩm ướt, u buồn. Đối với nhiều người, thì cơn mưa là một liều thuốc an thần. Làm cho đầu óc thư giản, dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Nhưng đối với tôi, nó chả khác nào là một thanh âm đầy phiền phức, đầy khó chịu. Và bây giờ, cả nhà đã ngủ hết. Chỉ còn mình tôi là lẻ loi “thưởng thức” nỗi buồn sâu thẳm, đầy tuyệt vọng của trời đêm này.

duoi-day-gieng-hoang-phan-3

Tâm trạng bây giờ hoàn toàn khác với hai đêm trước. Lúc ấy hồi hợp, hoang mang bao nhiêu. Thì bây giờ bồn chồn, lo lắng bấy nhiêu. Không phải là lo cho số phận của bản thân mình, mà là lo cho người phụ nữ bất hạnh ấy, lo cho số phận của hai anh em nhà kia oan ức mà không siêu thoát được, trở thành những oan hồn lang thang, vất vưởng như cô ta. Kế hoạch vạch trần thủ phạm tuy đã có, nhưng sự thấp thỏm, lo âu vẫn lấn áp hơn nhiều. Bởi ông Năm Gù là người hiền lành, dễ mến, nhà cửa ruộng vườn cò bay thẳng cánh. Thì làm sao có thể là kẻ hung tợn máu lạnh, sát hại ba mạng người được?

Đang nhìn cơn mưa trút xuống như đổ. Đột dưng, tôi nhớ lại câu nói của nội: “Cuộc đời, nó không đơn giản như quyển sách, đọc phần đầu là đoán trước được phần sau như thế nào, đời nó phức tạp nhiều lắm con à”. Lời bà nói thực sự rất đúng. Vì đời rất phức tạp, mọi chuyện đều có thể xảy ra một cách bất ngờ mà không thể nào lường trước được.

Hít một hơi sâu vào lồng ngực, giờ tôi đã cảm thấy tự tin hơn, quả quyết vào mưu kế của mình sẽ thành công, và rồi hung thủ sẽ phải chịu tội trước công lý, bất kể đó là ai đi chăng nữa.

Suy nghĩ được chốc lát, thì giờ tôi cũng đã thiếp đi. Cảm giác trời đêm nay thật là yên bình, tĩnh lặng.

Mưa rồi cũng tạnh, đêm rồi cũng tàn. Nhường lại bầu trời trong xanh cho những ngày nắng đầy hi vọng.

Chắc đêm qua thức khuya quá, nên hôm nay tôi dậy muộn hơn mọi khi. Cả cha và mẹ tôi đã rời khỏi nhà, chắc họ đã lên rẫy hái bắp. Chỉ con tôi và chị ở nhà. Chị đứng ở phía bên kia cửa sổ phơi đồ, quay sang thấy tôi đã dậy nên chị gặng hỏi:

- Ờm, cái kế hoạch, mưu kế gì gì của mày ấy. Đã xong chưa, nếu rồi thì kể cho tao nghe thử. Mà mày có chắc là nó thành công không? Mọi thứ tùy thuộc vào mày hết đấy.

Tôi mỉm cười, rồi nói:

- Chị đừng lo, em đã làm thì chỉ có thành chứ không có bại. Em dám chắc chưa đến bảy ngày là hung thủ sẽ chịu lộ diện và tự thừa nhận mọi tội ác của mình. Còn kế hoạch thì để từ từ.

Chị nhìn tôi chằm chằm, ghé sát cửa rồi nói:
- Ừm, nói được thì phải làm được đấy. Nếu có cần gì thì cứ gọi tao.

Cuộc trò chuyện vừa mới kết thúc, thì thầy pháp cũng vừa tới. Ông chạy xồng xộc vào nhà, nhanh tay ông mang ghế lại ngồi cạnh tôi. Rồi hỏi về kế hoạch bắt tên hung thủ ấy:

-  Giờ phải làm gì đây con, ta lo quá. Ta nghe đồn rằng tuần sau lão Năm Gù sẽ lên kinh thành, nếu không nhanh thì sẽ bại mất.

Ngồi nhỏm dậy, tôi ghé sát tai thầy rồi bảo:

- Con biết là ông Năm Gù là người độc thân, lại rất còn mê tín dị đoan nữa. Lão ấy sợ ma lắm, dán bùa chú khắp nhà. Thầy cứ lại nhà ông ấy, rồi thế này… thế này…đêm sau rồi để chị với con ra tay.

Thầy gật gù, vỗ tay tấm tắc khen:

- Diệu kế, quả là diệu kế. Ha ha ha.

Theo bước đầu của kế hoạch, thầy tức tốc đến nhà lão ta. Vừa bước đến, thì ông đã cảm nhận được một luồng âm khí rất lớn đang tích tụ trong nhà của lão ấy. Thầy quả quyết đoán, chỉ có oan hồn chết oan, chết ức mới có âm khí đầy ai oán như thế này.

Thấy hắn đang đứng trước cửa nhà, quần áo tươm tất, miệng thì đang phì phò khói thuốc. Ông liền giả vờ tỏ vẻ khát nước để kiếm cớ vào trong nhà hắn ta.

- Xin chào thí chủ. Tôi là thầy bói toán, kiêm cúng trừ tà từ trên kinh thành về, đi đường dài quá nên thành ra khát nước. Vậy thí chủ có thể cho tôi vào trong dùng cốc trà, ngồi nghỉ lưng một lát được không ạ. Nếu được thì tôi sẽ bói cho thí chủ một quẻ miễn phí.

Gã quả thật là một kẻ mê tín, vừa nghe thấy danh thầy bói toán từ kinh thành về thì nhanh chóng mời vào nhà.

- Dạ, mời thầy dùng ạ. Trà hoa Lài này con đặt từ kinh thành về, nên rất ngon và thơm ạ. Được thầy ghé nhà thật là quí hóa quá. Thầy đây chắc nổi tiếng về coi bói lắm phải không ạ.

Thầy trầm giọng nói với hắn:

- Chả giấu thí chủ điều gì. Tôi là người hành nghề coi bói đã 30 năm, tôi còn nghề tay trái nữa là trừ tà diệt ma.

Thoảng chốc, thầy nhìn hắn với một ánh mắt sắc lạnh, khuôn mặt bắt đầu đổi sắc:

- Này, nói cho thí chủ biết. Ta nói thì chỉ có chính xác. Nhà thí chủ đây có một vong hồn rất lớn, âm khí của nó đã chuyển đen rồi. Không giải thì chỉ có sụp đổ gia nghiệp hoặc ảnh hưởng đến tính mạng thôi.

Lão cũng bất chợt đổi nét rõ rệt trên khuôn mặt, nhưng vẫn giữ vẻ bình tĩnh, cất điếu thuốc lào sang một bên. Lão nói với chất giọng đầy khinh miệt:

- Vậy mà cũng tự xưng là thầy, còn dám nhận là hành nghề 30 năm. Tôi xưa nay ăn ở nổi tiếng là hiền lành, đức độ. Bà con xung quanh chưa một ai phàn nàn gì về tôi cả, tôi còn thường làm việc thiện cho gạo, giúp người nữa. Trời phật thương tôi còn chưa hết lấy đâu ra ma quỷ hãm hại. Ha ha ha. Lão sai rồi.

Tức giận, ông đập tay xuống bàn:

- Hỗn láo. Ta chắc chắn là trong nhà này đang có một oan hồn đau khổ, do chết một cách oan ức.

Thầy cười một bên môi đầy vẻ thách thức:

- Ta còn biết nó xuất phát ra từ đâu nữa cơ. Ta còn thấy được xương cốt của cô gái ấy bị nhốt trong một cái hũ nữa kìa. Ngươi còn gì không phục nữa không?

Vừa nghe thấy những lời nói chính xác từ thầy. Lão ta không khỏi hoang mang, run sợ. Lão quay mặt nhìn xung quanh nhà, thoắt tay lau vội những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán rồi nói với thầy:

- Sao… sao…thầy biết được chuyện này? Chuyện này chỉ có hai vợ chồng tôi biết thôi, bà ấy thì cũng đã qua đời. Tôi thì ôm khư khư chuyện này không kể ra cho ai? Vậy tại sao thầy lại biết được bí mật này?

Thầy nhìn thấy lão đã có vẻ luốn cuống, đành hạ giọng nhỏ nhẹ bảo với hắn:

- Sao? Người ta tin vào ba mươi năm hành nghề của ta rồi chứ. Chẳng việc gì có thể qua mắt ta cả. Mà người còn chằn chờ gì nữa, mau kể sự thật ra cho ta nghe đi nào, để ta con biết đường mà giúp.

Lão trầm tư, vuốt hai hàm ria rồi giải thích:

- Trước tiên, cho con xin lỗi về chuyện thất lễ lúc này. Giờ thì con đã sáng mắt, tâm phục khẩu phục thầy rồi ạ.

Húp một hớp trà, lão kể tiếp:

- Trước đây, con có một đứa con gái. Nó nhẹ dạ cả tin nên đã mắc lừa thằng sở khanh làng bên. Thằng đó quất ngựa truy phong, bỏ lại nó với cái bụng bầu chình ình. Mà thầy biết rồi đấy, gái không chồng mà lại có chửa thì cha mẹ chỉ có nước tự tử thôi, mới không bị xóm giềng chê bai, chế giễu. Rồi một đêm mưa, nó áp lực quá nên đành treo cổ tự vẫn. Con không dám đem ra ngoài chôn cất, mà để lại trong nhà, tự chặt xác thành nhiều khúc rồi hỏa táng, mà cũng không làm ma chay gì cả. Nếu được thì thầy giúp con trừ tà, con xin biếu thầy một chút tiền xem như lộ phí đi đường.

Dù trái ngược hoàn toàn với những lời của ma nữ. Nhưng ông vẫn nhận thấy nhiều điểm khác thường, đặc biệt là nét mặt của hắn và điệu nói rụt rè của hắn:

- Hừm! Dụng cụ để trừ tà,  thì ta đã bỏ quên ở kinh thàn. Chỉ mang theo được dụng cụ hành nghề bói toán thôi. Ngươi có muốn ta làm chứ.

Nhanh chóng, lão gật đầu:

- Vâng, tùy thầy ạ.

Thầy lấy ra hai đồng xu rồi bỏ vào một chiếc mai rùa, lắc được dăm ba cái. Rồi thầy lại kêu hắn đưa hai bàn tay ra. Chặc lưỡi một cái, thầy bảo:

- Nữ oan hồn này không phải là con của ngươi. Trước sau gì ngươi cũng phải gặp tai họa thôi, không sớm thì cũng muộn. Gieo nhân nào thì gặp quả đó.

Lão ta tức giận, mặt đỏ bừng bừng. Hét vào mặt thầy:

- Này, ông đừng có quá quắt nhé. Tôi ăn ở hiền lành, mắc mớ gì phải gặp nạn, lại còn gieo nhân nào thì gặp quả đó. Còn nó chính là con gái tôi, ông đừng ăn nói xàm bậy. Đồ cha già bói toán nhảm nhí.

Thầy điên tiết tới mức run người, lấy hết sức bình sinh mà hét vào mặt hắn:

- Cái tên láo toét này. Rồi nhà người phải trả giá đắt. Quay đầu là bờ, giờ vẫn chưa muộn đâu.

Lão ta cũng không vừa:

- Cút, lão cút khỏi nhà ta ngay. Gia nhân đâu, tiễn khách.

Thầy tức tối quát vào mặt hắn:

- Không cần ngươi tiễn. Làm thiện trời tích đức, làm ác trời trả quả. Ta sẽ chống mắt lên mà xem ngươi đầu rơi máu chảy. Hừm.

Nói vừa xong, thầy hằn hộc rời khỏi nhà hắn. Còn hắn thì vẫn chưa hết hoang mang lo sợ chuyện năm xưa sẽ bại lộ.

Về đến nhà, thầy kể với tôi lại toàn bộ câu chuyện. Qủa không nằm ngoài dự đoán, cuối cùng cũng biết được nơi chôn giấu cốt cô gái. Bây giờ là phương án hai: Đe dọa tinh thần.

Một lần nữa, tôi lại chạy lên rẫy của nội. Bà là người thích nuôi chim. Và đặc biệt trong số đó, có một con vẹt rất thông minh nói tiếng người sành sõi. Tôi nhanh chóng đem nó về nhà dạy nó, chưa đầy một tiếng mà nó đã thuộc hết lời thoại. Đã vậy, lại còn nói vanh vách trôi chảy nữa chứ.

Đêm đã đến. Đã tới lúc hành động, tôi một thân một mình chạy đến nhà lão. Nhà hắn có trồng một cây xoài cạnh bờ tường, tôi liền leo lên rồi núp trên cây xoài ấy. Nhìn thoáng qua cửa sổ, vẫn thấy lão còn đang thức đếm tiền dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn nến. Nhanh chóng, tôi thả con vẹt từ trong tay nải ra. Nó cứ theo kịch bản đã học thuộc mà bay lại đậu trên cửa sổ của hắn, rồi vang lên những câu sấm truyền ghê rợn, đầy ai oán:

“Sống ở đời nên làm việc thiện
  Để đêm về ma quỷ không ghé thăm
  Tránh việc ác, làm trái lương tâm
  Kẻo diều hâu, quạ mổ banh xác mày”

Lão bật té xuống ghế, mắt nhìn trừng trừng về phía con vẹt. Lão gầm gừ, hét toán lên:

- Đi đi con vẹt quỷ quái, để tao yên. Đi đi, không tao giết. Á..á...á

Con vẹt lại nói tiếp:

“Xác ta tuy, không còn nguyên vẹn
 Nhưng hồn oan mãi mãi ở nơi đây
 Trời cao có mắt rồi sẽ thấu
 Giết người tội ác khó dung tha”

Lão chỉ còn biết đưa tay lên đầu, nép mình vào góc tối. Bỗng nhanh tay, lão chộp lấy chiếc guốc ném về phía con vẹt, nhưng có lẽ quá hoảng sợ nên đã ném hụt, con vẹt chỉ kịp bay đi sâu hút vào màn đêm. Mà văng vẳng âm vang: “ Tối mai tao sẽ đến, tối mai tao gặp mày. À..há…há.”

Tôi ngồi trên cây khoái chí cười khúc khích, nhìn lão đóng cửa, mà khuôn mặt trắng bệch nhễ nhại mồ hôi. Bước hai đã thành công mỹ mãn, giờ là bước cuối cùng của kế hoạch: Oan hồn trên cây xoài.

Lần này là đến chị tôi ra tay. Chúng tôi lại đợi màn đêm buông xuống mà làm. Tự tay tôi trang điểm cho chị giống hệt với cô ma nữ kia, cả hai lại đi đến cây xoài. Tôi và chị, leo lên cây. Nhìn qua cửa sổ, thì vẫn thấy lão ngồi ở đấy đếm tiền như hôm qua, nhưng chỉ khác là có cái nạn thun để trên bàn.

Tôi giả tiếng cú kêu vang cả màn đêm, lão vừa nghe thấy đã ngóc đầu dậy nhìn xung quanh, tay cầm chắc chiếc nạn thun, mắt lươm lươm, đảo liên hồi. Bỗng lão lại ngồi xuống tiếp.

Tôi liền lấy chiếc chuông trong tay nải của thầy ra, gõ liên hồi 3 tiếng.

‘’Cong…cong…cong”

Ở trong phòng, khác với lúc nãy. Giờ lão đã rút ra một con dao gỉ sét, dính đầy máu. Lão điên tiết hét lớn thành từng câu ngấp ngửng:

- Mày… mày là người hay là ma, có… có… ngon thì ra đây đối mặt với tao. Tao…tao giết hết.

Giờ là đến vai diễn của chị tôi, chị leo trèo nhanh chả kém con sóc. Mới thoắt đó mà đã ra tới nhánh cây phía trong nhà. Vén mái tóc lên, chị cười to đầy vẻ ranh ma, khiếp sợ:

- Á..ha…ha…ha.

Lão vừa nhìn thầy đã run bần bật làm rớt cả con dao xuống đất, lão chấp tay quỳ lạy:

- Mày… mày… hãy tha cho tao đi. Chuyện đã xảy ra lâu rồi tao không cố ý giết mày đâu. Xin hãy tha mạng cho tao, tao hứa sẽ cúng lập đàn giải oan cho mày. Ma ơi, tha tao.

Chị tôi bắt đầu nhe ra hàm răng đỏ lườm, quát vào mặt hắn:

- Mày bào tao tha cho mày à. Đáng lẽ ra tao phải giết mày ấy, nhưng làm vậy thì tao với mày cũng cùng chung một loại người. Tối mai đúng canh hai (từ 21h đến 23h khuya), mày hãy đem hũ tro cốt ra ngoài cái giếng. Xé bỏ lá bùa ra, rồi tao sẽ tha cho cái mạng chó của mày.

Hắn khiếp sợ, vừa vái lạy van xin:

- Được, được. Tối mai tao sẽ làm, mà mày hãy giữ lời hứa. Phải buông tha cho tao.

Chị tôi gật đầu đồng ý, vừa lúc đó tôi ném một quả pháo khói vào trong nhà hắn hòng tẩu thoát.

Sáng hôm sau, vừa xong bữa cơm là tôi gấp rút chạy tới dinh quan huyện. Gặp ngay cái trống to đùng, tôi lấy cái dùi gõ ầm ầm. Thấy vậy, hai tên lính chạy ra mở cửa. Vừa mới bước vào trong, mà tôi đã có cảm giác sợ hãi, vì nơi đây thật oai nghiêm, tĩnh lặng. Vị quan huyện nơi này nổi tiếng là thông minh, xử trí tài tình, chưa bao giờ nhận hối lộ từ ai.

Ông oai vệ bước ra, với một khuôn mặt sắt lạnh:

- Này thằng nhóc kia. Mới sáng sớm mà đã gõ trống kêu oan. Có việc gì ai oán lắm phải không, mau kể cho ta nghe.

E sợ, nhưng tôi vẫn giữ bình tình kể cho ông nghe chi tiết câu chuyện. Ông nghe xong, cũng không thể nào tin nổi trên đời lại có chuyện hoang đường đến mức như vậy. Suốt sự nghiệp giải án, ông chưa bao giờ gặp phải trường hợp này.

Tôi liền thuyết phục quan bằng cả tính mạng:

- Xin quan hãy tin lời con, đêm nay quan cứ đi ra cái giếng trong khu mộ ấy thì sẽ gặp được những điều mà con vừa nói. Nếu có điêu lời nào, con xin trả giá bằng cả tính mạng.

Với bản tính cương trực thông minh và dày dặn kinh nghiệm chốn quan trường. Nhận ra được sự thành khẩn và mức độ chân thật đến khó tin của câu chuyện. Ông liền nói:

- Được, tối nay ta sẽ cũng hai tên lính kia đi đến nơi đó. Nếu mà ngươi dám nói láo ta sẽ xử không nương tay.

***

Trời đã lặn khuất sau dãy núi, mây hồng mờ dần, đường chân trời cũng không còn rõ nét. Trăng đã bắt đầu lên, đồng nghĩa với cuộc chiến cũng đã bắt đầu.

Trăng đêm nay rõ nét khác thường, dù tháng này nó chỉ mọc khuyết. Mây tản buông trôi về hai phía, con đường đến nghĩa địa thật rộng rãi. Tôi đã bố trí sắp xếp mọi thứ, thầy thì sẽ đứng trong nghĩa địa. Còn tôi cùng quan và hai tên lính sẽ nấp trong bụi tre gần đó.

Vừa đúng canh hai, tên Năm Gù đã tới. Hắn đi lủi thủi một mình trong đêm, tay ôm chặt chiếc bình đỏ vào lòng. Hắn bắt đầu nhìn xung quanh khu mộ, gió thồi vi vu qua hàng tre cuốn những chiếc lá bay lên cao, cát bụi bay mù mịt khắp trời. Hắn hoảng sợ đặt chiếc bình xuống đất rồi úp mặt xuống giếng mà nói:

- Mày có ở đây không? Tao đã mang bình đựng tro của mày đến rồi này. Tao sẽ xé lá bùa, ngày mai tao sẽ lập đàn giải oan cho mày siêu sinh. Xem như giữa hai chúng ta không duyên không nợ.

Quan giật bắn cả người, nhìn tôi lăm lăm, tỏ vẻ khiếp hãi. Thầy thì nhanh chóng từ trên cây xoan nhảy xuống, làm hắn khiếp vía, giật bắn người ra phía sau. Được vài giây định thần, hắn móc con dao năm xưa ra đưa trước mặt. Dưới cái ánh trăng đêm, con dao sáng lóe lên những đường bén sắt, toát lên một âm khí lạnh lùng, chết chóc. Hắn mỉm cười man rợ:

- À, thì ra là cái lão già này, ông đến đây để làm gì? À mà quên, tôi cũng chả quan tâm đến cái đó làm chi vì trước sau gì ông cũng phải chết. Tôi cho ông một câu hỏi cuối cùng trước khi đầu ông rời khỏi cổ đấy. Ông cũng đừng có la, không có ai mà dám bén mảng ra tới đây giờ này đâu. Hỏi đi. Ha ha ha.

Thầy nhìn hắn với ánh mắt đầy lạnh lùng sắc đá:

- Được thôi, nếu ngươi muốn thì ta sẽ hỏi. Tại sao ngươi lại giết hai đứa trẻ nhà kia? rồi còn nhốt cô gái này trong đây?

Lão cười lớn tiếng, đầy ngạo nghễ:

- Hay, lão hỏi hay lắm. Ta sẽ thành tâm trả lời để cho lão yên lòng nhắm mắt. Nếu mà ta không giết con nhỏ đó, thì trước sau gì ta cũng bị bỏ tù mọt gông. Ta cũng chẳng muốn cưới nó, mà chỉ thích chiếm đoạt đùa cợt với thân xác của cái con đàn bà đó thôi. Còn hai thằng nhóc kia, phải gọi là nó xui mới đúng. Ngay cái bữa ta đi xem hát về thì bất chợt thấy chúng nó đang làm điều mờ ám, tên thầy bói năm xưa có bảo với ta rằng “Hễ ai mà lại gần cái giếng thì cứ giết, kẻo con ma nữ nó nhập vào rồi loan báo lung tung, thì chuyện này sớm muộn cũng bại lộ”. Nên ta đành phải máu lạnh ra tay, đập đầu hai chúng nó. Rồi nhốt vào trong bụi tre, nhét bùn đầy miệng làm cho cha mẹ bọn chúng tưởng là bị ma bắt giết. Của cải, cơ nghiệp ta đang vững như thế không thể bị hai đứa nhóc đó phá được.

Thầy ôm ngực khụy xuống đất với những lời kể của hắn:

- Thật không thể tin được trên đời này lại có kẻ ác độc, dã man như ngươi. Giết ba mạng người ma không gớm tay. Tên súc sinh, xác người dạ thú.

Hắn lại khoái chí tiếp tục điệu cười man rợ:

- Lão tự cho mình là thầy bói toán sao? Phải là bốn mạng người mới đúng chứ. Lão đứng yên đó đi, ta sẽ nhẹ nhàng giúp lão kết thúc cuộc sống dùm cho. Ha ha ha.

Hắn lăm lăm con dao trên tay từng bước tiến về phía thầy đang gục ngã, nhìn hắn bây giờ chả khác nào con ác thú đang thèm khát máu người. Lão vừa vung dao lên, định đâm một nhát chí mạng thì bỗng oan hồn cô ma nữ từ dưới giếng hiện lên xuất hiện trước mặt hắn.

- Á ha ha, ba mươi năm, ba mươi năm rồi đấy. Đúng là đôi ta có duyên đấy, cuối cùng tao cũng đã gặp lại cái bản mặt khốn nạn của mày. Mày vẫn có nhớ rõ cái đêm ấy chứ, mày vẫn còn nhớ cái đêm máu tao đã bắn tung tóe khắp nhà mày chứ, mày còn nhớ lúc mày ném xác tao xuống giếng rồi chứ, mày vẫn còn nhớ những giọt nước mắt của tao van xin mày tha mạng chứ. Mày đã nhớ hết chưa, mày cũng khá lắm còn dám bén mảng tới đây luôn đấy.

Lão la hét, ngã bật đập đầu xuống đất:

- Mày, mày đã hứa là sẽ tha cho tao rồi kia mà. Tao đã đem cái bình cốt của mày tới đây rồi. Mày hãy giữ đúng lời hứa đi.

Cô ta ngồi trên miệng giếng, vén áo lên:

- Hứa? tao có hứa với mày à. Mày nhìn vết dao trên bụng tao này, mày nghĩ tao sẽ tha cho cái mạng chó của mày à. Mày phải chết, mày phải chết thì tao mới yên lòng hả dạ. Mày có biết tao đã chết trong khổ đau dày vò không, cha mẹ tao cũng không cúng ma chay, tao phải sống khổ sở đói khác nơi này đã lâu lắm rồi. Giờ là đến lúc mày phải trả giá. Á ha ha ha.

Cô ta bay tiến lại gần hắn, dang rộng hai bàn tay trắng bệch nổi từng gân xanh đòi bóp cố hắn. Nhưng cô bỗng bật ra, rồi đập mạnh vào giếng. Hắn sực nhớ lại là mình đang mang theo một lá bùa của tên thầy pháp kia. Hắn trợn mắt, vỗ tay cười vang lên:

- Mày tưởng là dễ giết tao lắm à. Mày còn non lắm con ạ, may mà tao có mang theo lá bùa trừ ma nên mày chả làm gì được đâu. Cứ ngồi đó mà coi tao cắt cổ ông già này.

Lão nhẽ nhàng tiếp cận thầy, vừa vung con dao chuẩn bị cắt thì bỗng quan đứng dậy hét lớn:

- Bây đâu. Mau gông cổ tên nghiệt súc này lại cho ta, ngày mai chém đầu thị chúng.

Hắn hoảng sợ bỏ con dao chạy trốn, nhưng sức của hắn thì làm sao địch lại nổi hai tên lính cường tráng kia. Cuối cùng, hắn cũng đã bị tóm gọn. Quan và hai người kia áp giải hắn về nhà ngục.

Tôi và ông tức tốc chạy lại phía cô ấy. Có lẽ, cô đã thấm mệt nên không nói nên lời nữa, ông liền bảo:

- Ta đã giữ đúng lời hứa với cô. Đã bắt được tên hung thủ, ngày mai ta sẽ lập đàn giải oan, giúp cô đầu thai qua kiếp.

Cô ta nắm chặc lấy tay tôi và ông, rồi gật đầu cảm ơn.

           ***

-Loa…loa…loa. Tất cả dân làng nghe đây vào đúng giờ ngọ hãy mau mau đến huyện phủ đại nhân, để xem xét xử kẻ sát nhân máu lạnh tước đoạt ba mạng người. Ai không đi sẽ bị phạt tội đồng lõa. Loa…loa…loa – tên lính ngồi trên yên ngựa kêu vang khắp chợ.

Cả dân làng tụ tập về phía huyện đường, ai còn bán cũng phải đóng cửa, ai dù bận đến mấy cũng phải đến đấy.

Quan huyện oai nghiêm bước ra, ông nhanh chóng ngồi vào ghế. Hai bên là dàn lính cao to, đứng sừng sững đầy oai vệ. Cả dân làng ai nấy cũng đều run bật trước chốn oai nghiêm, không một ai dám hé dù chỉ một lời. Quan bỗng hét lớn:

- Bây đâu mau gông cổ tên sát nhân máu lạnh Năm Gù ra đây.

Cả dân làng lập tức xôn xao khác hoàn toàn với vẻ im lặng lúc nãy. Họ hoảng hốt khi nghe rằng ông trưởng làng Năm Gù là kẻ giết người, không một ai tin cả, ai cũng đồng loạt kêu oan sai, bắt nhầm người. Quan thấy vậy liền hét lớn:

- Toàn dân làng mau im lặng, ta xưa nay nổi tiếng là cương trực, nghiêm minh trong xử án. Chưa bao giờ xử bậy tạo oan sai.

Thấy vẫn còn tiếng bàn tán, quan đập tay xuống bàn:

- Này tên ác nhân máu lạnh kia. Có phải ba mươi năm trước ngươi đã hãm hiếp rồi vứt xác nạn nhân xuống giếng hay không? Và cũng có phải ngươi là kẻ giết 2 đứa nhóc nhà bà Năm Hồng phải không?

Hắn chỉ còn biết gục mặt, nói ti hí, ngấp ngửng từng lời:

- Dạ, phải ạ. Chính con đã giết cả ba mạng người ạ.

Quan đứng dậy, nhìn vào đám đông:

- Giờ các ngươi đã tin chưa. Hắn bề ngoài tỏ vẻ hiền lành, lương thiện nhưng bên trong là một con ác thú vô nhân đạo. Vỏ bọc của hắn thực sự rất hoàn hảo, đến cả ta còn không tin hắn là kẻ giết người. Nhưng nhờ một cậu bé thông minh đã giúp ta phá án, nên mới biết được chuyện này.

Dưới đám đông, cô Năm Hồng bật khóc, hét lớn:

- Mày, mày là người giết con tao. Trả con cho tao, thằng ác độc mất tính người kia. Thằng súc vật, đồ cầm thú. Tao phải giết mày.

Hàng loạt người khác cũng đồng thanh chửi hắn, giờ hắn chỉ còn biết nhục mặt mà cúi đầu xuống đất.

Quan giơ tay ra hiệu im lặng:

- Giờ ngọ đã đến, đã tới lúc ngươi phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đao phủ mau ra đây.

Từ trong dinh huyện bước ra một tên đao phủ to cao, ông ta ở trần lộ rõ những hình xăm quái dị trên lưng, trước ngực. Tay thì cầm cây đao sắc bén. Ông ta ngậm rượu vào trong miệng, giơ đao lên trời cao đợi lệnh từ quan. Quan huyện quay về chỗ ngồi, rút một tấm thẻ bài ném xuống đất, ông hét như cọp gầm:

- TRẢM.

Tiếng vừa dứt tên đao phủ phun rượu vào con dao. Nhanh chóng hắn chém xuống đầu tên sát nhân.

“Xoẹt”

Đầu của tên cầm thú kia rơi xuống nghe một tiếng “bịch” rõ to, màu từ chiếc cổ bị chém của hắn chảy xuống ào ào, tạo nên một cái lỗ sâu hoắm dưới mặt đất. Rồi thân người của hắn ngã xuống, chiếc áo phạm nhân màu trắng của hắn đã thấm máu chuyển sang một màu đỏ thẫm. Đây có lẽ là cảnh tượng ghê rợn nhất mà tôi từng thấy.

Quan phán tiếp:

- Tên ác nhân đã bị trừng trị. Nhân tiện để cho bà con có một ngày tết ấm no.Toàn bộ của cải của hắn sẽ được quy lại thành gạo, muối, quần áo phát lại cho toàn bộ người nghèo trong dân làng. Ai đồng ý thì đồng thanh hô to đi nào.

Cả dân làng phấn khởi hô đồng ý. Ai nấy cũng đều hả dạ với cách phán xử của quan, vừa diệt được kẻ ác vừa giúp cho người nghèo. Qủa là anh minh, tài đức.

***

Ngày tàn đêm lại đến, tôi cùng vị pháp sư đến cái nghĩa địa ấy lập đàn giải oan cho oan hồn cô ta. Thầy thấp 49 ngọn nến, và 49 cây nhang. Để lần lượt lên bàn 1 mâm xôi, 1 dĩa chén muối gạo. Tay cầm ba nén nhang để lên trán  đọc kinh siêu độ. Được một lát, cô ta đột ngột từ đáy giếng hiện lên. Không còn là hình dạng của một oan hồn tóc đen dài, ảo vải trắng nữa mà bây giờ cô đã trở lại hình dáng cô gái xinh đẹp, với một bộ quần áo trắng tinh khôi. Cô cười khẽ, rồi nói:

- Xin cảm ơn cậu và vị pháp sư đây đã giúp tôi giải nỗi oan ức. Thật sự tôi không biết làm gì để bày tỏ hết sự biết ơn và hạnh phúc của mình cả. Thật sự cảm ơn hai người từ tận đáy lòng, giờ tôi đã bắt đầu lại được kiếp khác. Mong duyên nợ sẽ giúp ta gặp lại nhau.

Nói vừa dứt, cô ta bỗng bay cao lên không trung, trăng sáng đã gột rửa sự căm phẫn trong lòng cô, giờ chỉ còn sự tinh khiết, hiền lành của cô gái tuổi đôi mươi. Cô hóa ra thành từng mảnh rồi hòa nhập vào trong không gian đầy ánh sáng.

***

Đây thật sự là những tháng ngày đặc biệt nhất đối với tôi. Có lẽ nó sẽ mãi lưu giữ trong tim và trí óc mà không bao giờ phai nhòa.

Ngày dần trôi qua, và cuối cùng rồi ngày tết cũng đã đến, từ già trẻ lớn bé ai cũng quên đi chuyện cũ năm xưa mà hòa nhập vào bầu không khí từng bừng đầy sắc màu.

4 1
やまざき てがみ UwU | Chat Online Report
dành cả tuổi thanh xuân để đọc truyện ma T^T
1 0
Nguyen Thi Dung | Chat Online Report
Hay. Nhưng dành cả thanh xuân để đọc
2 0
Nguyen Thi Dung | Chat Online Report
Anh trai tui giỏi nhất
2 0
T2P.Thaor | Chat Online Report

​truyện ma thanh xuân tui đó
1 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:10:08
Chat Online
DƯỚI ĐÁY GIẾNG HOANG - PHẦN 2

Tiếng gõ cửa vang lên, càng lúc càng dồn dập tựa như muốn đập vỡ thành từng mảnh. Phía trước cánh cửa kia là ai người hay ma? Nửa thì tò mò khám phá, nửa thì sợ hãi, khiếp đãm yêu ma. Không biết mình phải làm gì vào tình thế lúc này?

Qủa tim như muốn vỡ ra từng mảnh, từng giọt mồ hôi mẹ mồ hôi con ra thấm đẫm lưng vai áo. Tất cả cơ bắp thần kinh căng tròn như một trái bóng sắp nổ tung. Tôi nhanh chóng vớ tay lấy cái chăn quắn kín cả người lại, ngồi co ro trong góc giường. Tay chân thì run lẩy bẩy, còn đầu óc thì lại mơ màng nhớ về gương mặt ma quái, kinh hồn dưới đáy giếng.

Được một lúc, tiếng gõ dần nhỏ đi, nhưng những cơn nỗi da gà thì lại tăng, hết chân tay rồi lên đến cả đỉnh đầu. Đêm nay thật quá hãi hùng.

Như mọi đêm, sương từ ngọn núi Dài lại rơi xuống. Khoảng không gian tối mịch, lặng im như tờ đang được màn sương trắng toát bao phủ. Nhìn từ phía cửa sổ hướng ra xa chắng thấy được gì ngoài một màn khói sương trắng dày đặc. Bây giờ, dù cho có hàng trăm mối hiểm nguy đang rình rập phía trước cũng chẳng thể phát hiện ra để mà phản kháng, sinh tồn.

Bất chợt, nhận ra tiếng gõ không còn nữa, tôi nhanh chóng vứt chăn ra khỏi người rồi chạy nhanh về phía tủ thờ ông nội, nhấc cái chân hương lên rồi lấy ra một sợi chuỗi mà bà tôi đã được một vị sư trên chùa tặng. Xong rồi lọ mọ, cuống cuồn đi xuống nhà bếp để kiếm thêm vài ba cây nến khác đốt cho đến khi nào ba, má và chị hai về. Bình thường, chỉ được đốt một cây thôi vì giá nến rất đắc, nhưng giờ thì còn bận tâm gì về cái chuyện đó nữa, quan trọng lúc này là bằng mọi giá phải xua đi cái hắc khí bí hiểm trong ngôi nhà này.

Vừa thắp sáng được 2 cây nến trên bàn là tôi vụt chạy ngay đến góc giường lúc nãy, gom hết chăn gối lại, mà ngồi co ro trong đó. Miệng thì lại lẩm bẩm câu ''Nam mô a di đà phật, cầu trời phù hộ cho con toàn mạng hết đêm nay. Con xin tạ ơn''.

Bất thình lình, tiếng tụng kinh cầu siêu bên nhà cô Năm Hồng dứt, theo sau đó là tiếng gào khóc ai oán, xé lòng cất lên. Làm cho màn đêm càng thêm đáng sợ, ma mị. Gió lại tiếp tục nối lên. Lá trên cây xoài cứ thế mà theo cơn gió bay, ma sát với mái nhà tạo ra tiếng ''kít két, xào xạc'' tựa như hai bàn tay đang cào thét thảm thiết, tìm cách chui vào nhà. Mưa, từng hạt rồi từng hạt rơi xuống làm cho không khí càng thêm lạnh lẽo, não nề.

Tôi đột ngột nhớ lại rằng mình vẫn chưa cài chốt cửa sổ. Còn gió thì cứ thế, lại tiếp tục thổi làm cho nó đập vào nhau, mở ra rồi lại đóng cứ thế mà tiếp diễn. Bây giờ có cho vàng bạc đá quý cỡ nào đi chăng nữa, tôi cũng chả dám bén mảng lại gần cái cửa sổ ấy. Từng hồi trống ngực lại vang lên như muốn xé tan lá phổi, hai hàm răng đánh vào nhau nghe ''cạch cạch'' một cách vô thức.

Giờ chỉ còn ước là cha, mẹ mau về thôi tôi chả cần gì nữa cả, không muốn thêm một giây phút lẻ loi nào trong căn nhà này nữa.

***

duoi-day-gieng-hoang-phan-2

Từ thưở bé đến lớn, tôi chưa bao giờ phải ở nhà một mình vào đêm khuya như vậy. Tôi bắt đầu nhớ rồi lại khóc, rồi lại tự trách bản thân mình. Phải như đêm đó tôi không dẫn chúng nó đến cái nghĩa địa đấy, không lại gần cái giếng ấy thì đâu có xảy ra cái cớ sự này, phải như...... những cơn nấc làm tôi không thể nào nói lên lời nữa, những giọt nước mắt rơi xuống ngón tay, mắt lại nhòe dần đi... có lẽ giờ nó đã đỏ hoe lên.

Tôi lại tiếp tục tự hỏi bản thân mình, có nên nói sự thật về đêm hôm đó cho mọi người biết hay không? Có nên thú nhận tội lỗi của mình hay không? Thật khó xử, giờ tôi chỉ còn lặng lẽ vô hồn nhìn vào cái cửa sổ rồi đếm thầm từng đợt đập ra đập vào của nó thôi.

1 ra này, 2 vào này, 3 ra này, 4 vào này,.... đến cái thứ 7......

Chớp nhoáng vài giây, một người phụ nữ gầy gò, với mái tóc đen dài xõa ngang vai xuất hiện trước cửa sổ, bà ta nhìn chằm chằm vào trong căn nhà, sương càng lúc dày đặc hơn che khuất tất cả không thấy gì ngoài phần đầu của bà ấy.

Tôi định hét lớn lên nhưng lại không thể, hai hàm răng lại cắn cứng chặt lại không tài nào mở ra được, cái cổ họng...sao nó cứng quá, còn tay chân thì lại mềm nhũn ra chẳng còn sức kháng cự. Chã lẽ mình sẽ có kết cục giống như 2 thằng kia. Mình sẽ chết, sẽ là người tiếp theo hiến mạng cho con ma ấy ư.

Tôi chỉ còn biết lặng nhìn nó và núp khuất trong góc tối, cầu mong trời phật cho nó không thấy.

Bỗng nó thò 1 cánh tay gầy gọc vào trong, rồi đập vách một tiếng rõ to ''bốp''.

Tiếng đập ấy như đã làm bùng nổ sự sợ hãi trong người. Tôi bật khóc và hét lớn lên, còn hai tay chắp lại van xin: ''Đừng, xin hãy tha mạng cho con. Con sẽ không bao giờ bén mảng đến nơi đây lần nào nữa đâu. Con hứa sẽ cúng tạ tội. Xin tha cho con''.

Vừa dứt tiếng cầu xin, từ người phụ nữ ấy đột ngột cất lên một giọng cười khanh khách, bà ta lắc đầu rồi nói rõ lớn:

- Ê, cái thằng Nam này! mày điên à, mày hét cái gì thế hả, ai ăn thịt ăn cá mày mà hét lên. Thằng Pháo nhà tao nó đang sốt nặng, kêu thầy qua chữa mà hết nến rồi, nên tao sang nhà mày xin 1 cây, mai tao trả tiền lại cho má mày.

Trong chốc lát, tôi nhanh chóng bừng tĩnh lại, lau vội mồ hôi trên trán, nước mắt trên mi. Nhìn kĩ lại khuôn mặt. À...thì ra là cô Hai Hồng nhà bên, ấy mà tôi cứ tưởng....

Thở phào nhẹ nhõm, tôi chạy lại mở cửa mời cô vào nhà, rồi nhanh chân xuống bếp lấy nến. Cô nhận rồi cảm ơn, nói mai sẽ ghé trả tiền. Bóng cô vừa dứt, thì 3 người còn lại trong nhà cũng đã về tới, theo sau là các hộ khác trong làng. Mừng như đã lâu năm chưa được gặp họ vậy, tôi chạy nhanh về phía mẹ. Ôm bà khư khư, vúi đầu vào lòng ngực cảm nhận sự ấm áp mà tôi mong chờ từ nãy đến giờ.

Bà bỗng nói:

- Tao có mua bánh trái gì cho mày đâu mà chạy lại ôm, chưa đánh đòn mày vì tội trốn là may rồi đấy, con ạ. Thôi, vào nhà ngủ sớm. Mai còn phụ chị hai mày dọn dẹp nhà cửa nữa.

Tôi nhanh chóng đáp lại trong niềm vui sướng không kể:

- Chỉ cần gia đình ta sum họp như vậy là con vui rồi, con không cần bánh, hoa quả gì đâu. Mà mẹ đừng bắt con ở nhà 1 mình như vậy nữa, con sợ lắm.

Bà mỉm cười, nhẹ nhàng đáp:

- Ừm. Con mà không phá phách, nghịch dại thì mẹ đâu có phạt. Mà năm này đoàn hát diễn ít quá, chưa được 3 ngày là đã đi nơi khác rồi. Rõ chán!

Thở dài một đoạn, bà nói tiếp:

- Thôi vào nhà, kẻo lại bệnh thì khổ.

Qủa thật là may mắn, lời đe dọa ấy hình như đã sai hoàn toàn. Có lẽ mọi chuyện đã kết thúc rồi, an toàn rồi... Nhưng... sự thật thì lại không phải như vậy, đây.... chỉ mới là sự bắt đầu của hàng loạt hiện tượng ma quái, kì dị, bí hiểm diễn ra trong căn nhà gỗ này.

* * *

Ngày nắng cũng đã lên, hàng tre trước cửa đong đưa, con gà gáy sáng, tiếng người cười nói..... mọi sự thật yên bình. Nhưng trong lòng tôi lại trái ngược hoàn toàn với thế giới bên ngoài ấy, vẫn chưa hết băn khoăn, lo lắng về tối đêm hôm qua, có lẽ đó là sự may mắn mà trời phật đã ban tặng cho tôi. Lời cảnh báo trên 2 anh em nhà kia vẫn làm tôi lo sợ, bồn chồn. Không biết khi nào ''nó'' mới thật sự xuất hiện, nhưng nếu có thì mình phải biết làm sao? Thật mệt mỏi, tôi vẫn lại mong sao cái đêm ấy chưa bao giờ xảy ra, ông bà nói cấm có sai ''khôn ba năm dại một giờ''.

Vừa suy nghĩ được một thoáng thì cái bụng bắt đầu kêu một tiếng ọt rõ dài, có lẽ tôi cần phải đi xuống bếp rồi.

Chỉ mới ăn được vài muỗng cháo, thì phía sau nhà chị tôi bỗng lớn tiếng lên:

- Thằng Nam, mày ra đây mà xem này. Có phải do mày làm không, ra đây nhanh lên.

Tôi hốt hoảng chạy ra, mà chả biết chuyện quái gì:

- Có gì vậy chị hai. Em mới thức dậy mà, đang ăn cháo thì bỗng chị gọi rồi em hớt hải chạy xuống đây này.

Chị gằn giọng bảo:

- Mày xem đây này, nước cha gánh từ sông về nhà cực khổ vậy mà giờ mất chỉ còn lại nửa chum. Sao mà đủ dùng cho tuần này. Còn cái gáo múc nước lại vỡ tan tành.

Ngưng một khoảng, chị nói tiếp:

- Tối đêm qua chỉ mình mày ở nhà, mày không phá phách thì ai làm hả?

Đột ngột bị đổ lỗi, tôi tức quá liền lớn tiếng nói lại:

- Chị nói thì cũng phải có chứng cớ chứ, nếu mà em quậy phá thì quần áo của em phải bị ướt chứ, với lại đêm qua lạnh buốt, em đâu có ngu mà ra đây phá nước. Em cũng biết cha cực khổ mới có nước cho ta xài chứ, nên em đâu dám phá.

Còn chị thì vẫn chưa hết tức giận:

- Mày không làm vậy chứ ai làm? Chã lẽ là tao làm à hay... mày đổ lỗi cho con ma, con quỷ nó làm.

Nghe chị nhắc đến ma tôi bỗng rùng mình xua tay:

- Thôi, chị đi mà hỏi mẹ. Em chả biết gì đâu, em cũng xin nhắc lại việc này không phải do em làm.

Bỗng từ phía trước nhà, mẹ tôi kêu lớn:

- Thằng Nam, con Hai đâu. Ra đây phụ tao mang bó rau với con gà ra sau nhà coi.

Chị vừa nghe thấy đã nhanh chân chạy ra, hỏi mẹ:

- Mẹ ơi! Nước trong chum giờ chỉ còn một nửa? Con hỏi thằng Nam mà nó lại trả lời không biết. Còn mẹ, đêm qua mẹ có dùng nước làm gì không?

Bà vừa cầm nón, vừa quạt vừa nói:

- Mày nói cái gì ấy? Đêm qua tao có xài chút nào đâu, vừa về nhà xong là tao với cha mày lên giường làm một giấc tới sáng, có ra sau nhà đâu mà xài. Cái con dở này.

Chị tiếp lời:

- Vậy tại sao nước lại mất, nó bốc hơi đi à! Hay do ma quỷ nó làm.

Mẹ ngồi bệt xuống đất rồi lắc đầu, cả ba chúng tôi chả ai biết là ai đã làm mất nước trong cái chum ấy.

Chẳng mấy chốc rồi một ngày cũng đã kết thúc, khác với mọi đêm trước, khi vừa xong bữa cơm là tôi trốn đi chơi ngay, nhưng từ khi xảy ra vụ việc ấy tất cả trẻ con trong làng, đêm tối không còn cho ra ngoài nữa.

Đêm đã tới, trăng đêm này không tỏa, sao thì cũng lưa thưa trên trời, còn mây đen dày đặc lại thành từng đám.

Ba tôi đang ngồi trên giường, vừa rít xong điếu thuốc ông bảo:

- Giờ cũng đã khuya rồi, cả nhà đi ngủ thôi.

Nhà tôi thì không có phòng chỉ chia ra làm hai nhà thôi. Ba mẹ tôi thì ngủ ở nhà trước, đối diện cái cửa sổ đêm ấy. Còn tôi và chị ngủ ở nhà sau, mỗi người một giường.

Vừa mới ngả lưng, tôi đã lấy chăn đắp kín người lại, chỉ chừa có cái đầu ra ngoài. Còn chị thì vẫn chưa tin về những lời nói của tôi. Chị bảo:

- Mai mà tao thấy mày mà còn phá nữa là tao méc má đấy, cho mày một trận nhớ đời.

Nói dứt đoạn chị thắp cây đèn dầu lên. Cả nhà bây giờ chỉ còn có ngọn đèn này là ánh sáng duy nhất, nó mà tắt thì chẳng khác nào con đường đêm ấy.

Tôi đang mê man, sắp chìm vào cơn mơ thì ngọn đèn bỗng nhiên tắt. Chị tôi liền bước xuống, lại gần cái bàn thắp lại ngọn lửa. Rồi nhìn sang tôi bảo:

- Sao kì vậy, cửa thì đóng kín còn mày thì nằm trên giường. Vậy tại sao nó lại tắt?

Tôi nhìn sang chị lắc đầu nói:

- Em không biết.

Tôi vừa nói dứt câu, thì nó lại tiếp tục tắt. Vứt chăn tôi chạy lại giường chị rồi ngồi nấp sau lưng. Tôi và chị, cả hai đều không biết chuyện gì đang xảy. Đang mơ hồ suy nghĩ, chị lại thắp một cây nến lên rồi soi xung quanh đèn xem có bị hư hỏng gì không, hay là nó đã hết dầu rồi.

Nhưng soi mãi, càng soi thì càng khó hiểu, chả thấy điều gì khác biệt. Rồi chị lại thắp nó lên một lần nữa. Kể từ lần thắp này, cây đèn không còn tắt nữa, nó đã bình thường như mọi khi. Chị bảo tôi sang giường kia mà nằm, bên đây 2 người nằm chặt hẹp mà còn lại nực. Tôi lật đật, cuống cuồn chạy qua bên kia giường cuộn người trong chăn mà không khỏi run sợ.

Tôi thầm hỏi nó đã đến rồi chăng? Và có khi nào... nó đang nằm trên giường với mình không?

Mồ hôi lại bắt đầu chảy đầm đìa, tôi nín thơ đưa tay lau vội trán. Đột ngột dưới nhà bếp có tiếng chén bát vỡ làm kinh bạt hồn vía, rồi những chiếc nồi rơi xuống ''đùng đùng''. Cha mẹ tôi choàng tỉnh giấc, chạy xuống bếp xem. Tôi và chị cũng bẽn lẽn đi sau lưng.

Tới bếp mẹ lấy cây đèn dầu soi khắp xung quanh mà không thấy bóng dáng ai hay con gì cả. Chỉ có ở dưới đất là những mãnh vỡ của chén, cơm nguội văng tứ lung tung, còn những chiếc nồi nằm lật úp xuống. Bà điên tiết lên:

- Chết tiệt! Gần tết đến nơi rồi mà lũ chuột quỷ quái này quậy phá quá chừng, sau mà dám nấu nướng gì đây.

Mẹ vừa nói xong, cha tôi cất giọng nói:

- Tôi nghĩ không phải do chuột đâu. Bà với sắp nhỏ nhìn mà xem, hạt cơm bị dặm nát, giống như là có người bước lên nó vậy. Cái này còn vết tay cạo nữa kìa.

Mẹ tôi liền đưa đèn xuống soi, bà hoảng hốt:

- Đúng là kì lạ thật nhìn như bàn chân người vậy ông ạ. Không lẽ có trộm vào nhà?

Mẹ quay sang nhìn hai chị em tôi, rồi nói:

- Tụi bậy có ăn hay không? Nói thật cho bố mẹ biết.

Chị liền nói:

- Không phải đâu mẹ ạ. Con với nó nãy giờ nằm trên giường đâu dám đi đâu. Mà lúc nãy kì lạ lắm, cây đèn trên tay mẹ cầm ấy, nó cứ đột ngột tự động tắt hoài à. Con coi kĩ lắm mà không thấy gì khác lạ cả.

Cha tôi bỗng ngáp rồi nói:

- Thôi đi ngủ, chuyện gì thì sáng mai tính.

Thế là ai về giường nấy, mẹ tôi đóng cửa nhà bếp lại rồi bỏ chìa khóa vào túi.

* * *

Đêm đã đi nhường ngày nắng tới, từng tia hé qua khe cửa sổ rọi thẳng vào mặt. Đang còn trong cơn mơ màng, tôi hé mắt nhìn lên trên trần nhà, bất chợt một hình ảnh mờ ảo hiện lên. Tôi dụi mắt nhìn kĩ lại thì đó là 1 bức tranh. Tôi tập trung nhìn kĩ lại lần nữa... thì chính xác hơn là cái giếng. Là nó chính là nó, cái giếng của cái đêm định mệnh ấy. Tôi liền lấy hết sức bình sinh mà hét:

- Á....a...a... cả nhà ơi. Cứu con. Á....a...a....

Mọi người lập tức chạy lại giường tôi.

Mẹ ôm lấy tôi, trấn an hỏi:

- Có chuyện gì hả con? Sao con la lớn vậy, có cha mẹ đây con đừng sợ?

Tôi lầm bẩm nói:

- Mẹ, nhìn.... nhìn..... trên..... trên trần nhà kìa.

Theo lời tôi, tất cả đều nhìn lên trần nhà, ai cũng trố mắt ngỡ ngàng.

Chị tôi hét lớn trong cơn hoảng loạn:

- Bức vẽ ấy đã có từ khi nào, ai đã vẽ được nó với một độ cao như vậy? Ai, là ai đã làm chuyện này?

Đến đây, tôi không thể nào chịu nổi những sự việc kì lạ này nữa. Và đã đành kể lại toàn bộ câu chuyện đêm hôm đó cho mọi người nghe.

Vừa kể xong. Cha tôi, ông tức giận quát lớn:

- Tao chả tin vào ma quỷ gì cả, cái này chỉ có thể là do con người làm thôi. Tao đã sống 40-50 năm nay còn chưa gặp huống chi là mày.

Còn mẹ và chị hai tôi thì hoàn toàn trái ngược với cha, cả hai người đều tin vào lời tôi nói.

Mẹ bồi hồi kể lại, việc xảy ra hồi năm chị tôi mới 10 tuổi:

- Năm ấy cha con được bà con xa mời đi ăn giỗ, đi tới tận 1 ngày 1 đêm mới đến tới nơi, cho nên chỉ có mẹ và chị hai ở nhà một mình. Rồi cái bỗng chị con, nó đột ngột sốt. Mẹ phải đành ôm chị mày chạy bộ đến nhà ông thầy lang. Đường lúc đó cũng giống như con kể, tối thui, mù mịt.

Bà bậm môi, thở dài một hơi rồi kể tiếp:

- Đường đi đến đó, phải qua ngang cái nghĩa địa ấy. Mẹ chạy đến đó đã hết sức nên đành phải cuốc bộ từ từ. Thì bỗng trên cái giếng ấy, một cô gái áo trắng với mái tóc đen dài ngồi trên miệng giếng, nó khóc lên từng tiếng ai oán, kinh hồn. Mẹ thấy vậy, hoảng hồn ôm lấy chị mày bỏ chạy một mạch, không dám nhìn lại. Đến sáng mới dám đi về.

Tôi bàng hoàng hỏi:

- Giờ tính sao đây mẹ. Con chưa muốn chết đâu.

Mẹ vỗ về tôi rồi nói:

- Con đừng lo mẹ sẽ bảo vệ con bằng mọi giá. Chúng ta sẽ đi gặp nội, bà là người sống lâu năm ở đây nên chắc có thể giúp cho con được.

Tôi nghe theo lời mẹ, chạy tức tốc lên trên rẫy của bà. Rồi nói hết mọi chuyện từ đầu tới cuối.

Bà nghe xong câu chuyện, liền thở dài tỏ vẻ mệt mỏi, chặt lưỡi một cái bà bảo:

- Hôm mày hỏi cái giếng là tao sinh nghi là sẽ có chuyện không hay rồi. Mà quả thật, đúng là như vậy. Con cũng đừng lo quá, bà có quen một ông bạn già hành nghề thầy pháp. Ông ấy giỏi lắm, chắc chắn sẽ hóa giải được kiếp nạn này.

Đến trưa bỗng một ông cụ râu tóc bạc phơi, dáng người mảnh khảnh, lưng còng tay xách chiếc túi khá to. Ông chắc chạc tuổi bà tôi. Vừa gặp tôi, ông vào thẳng vấn đề chính:

- Con có phải là Nam không? Ông đã nghe bà con kể lại toàn bộ câu chuyện rồi, nếu đúng là ma quỷ phá phách thì con này có lẽ rất là hung dữ. Nhưng với 30 năm hành nghề thầy pháp, từng trừng trị, gặp vô số quỷ dữ ta nghĩ cũng không khó khăn lắm.

Chỉ mới vừa húp được một tách trà, ông lại trừng mắt, gằn giọng bảo:

- Ta cảm nhận được luồng âm khí trong nhà con. Nó dày đặc lắm, không làm mau gấp rút thì hậu quả sẽ khó lường.

Tôi cúi đầu nói:

- Vậy tối nay luôn được không thầy.

Ông nhanh chóng đáp:

- Chắc chắn là tối nay. Ta, con, chị và mẹ. Sẽ cũng nhau đi ra cái giếng ấy.

* * *

Bóng đêm lại bao phủ nơi đây lần nữa. Trăng đêm nay lại rõ sáng khác thường với mọi khi. Vừa xong bữa cơm là tôi và mẹ, chị cùng thầy pháp lên đường đến nghĩa địa. Vừa đặt chân lên con đường ấy, cái cảm giác ma quái, chết chóc ngày nào giờ đã quay trở lại nhưng giờ nó còn ghê sợ hơn trước. Từng bụi gai, lùm cây, chỗ núp của hai anh em nhà kia vẫn còn ở đó. Và cả bụi tre mà tụi nó bị nhốt.

Cuối cùng thì cũng đã đến nơi. Do buổi sáng thầy có đến đây để thăm do, lối đi ra vào nên rất rõ địa hình nơi này. Ông dẫn chúng tôi đi tiếp đến một bụi tre gần đó. Dưới cái hàng tre to lớn ấy có một cái hang nhỏ thông vào tới bên trong khu mộ. Cả 4 chúng tôi ì ạch từng người từng người một chui qua.

Và bây giờ, nghi lễ đã thực sự bắt đầu....

Ông ta bỏ tay nải xuống, trong đó có rất là nhiều thứ. Thoạt tiên, ông đốt 3 cây nhang lên rồi cắm sâu xuống mặt đất. Kế tiếp, ông lấy một chén đầy máu chó mực đổ vào trong bình rượu gạo rồi dùng cả bàn tay để pha đều lên. Vừa xong, ông cho tay vào túi lấy ra hai cái lá tre rồi nhúng vào trong hỗn hợp ấy. Sau đó, ông ta quay về phía chúng tôi và bảo mau đứng lại thành một cụm, rồi cúi xuống nhặt một cành cây vẽ thành vòng tròn, niệm thầm một câu thần chú. Ông nhìn chằm chằm và bảo:

- Đây là chiếc vòng phép, ta ểm bùa phép vào trong đó. Lũ ma quỷ sẽ không thể làm hại được các người, trừ khi tự động thoát ra khỏi vòng thôi. Hậu quả sẽ rất kinh khủng.

Lời cảnh báo vừa dứt, nghi lễ lại được tiếp tục thực hiện. Ông cho tay vào tay nải, lấy ra một túi gạo trộn lẫn với muối. Rồi lấy bình rượu lúc nãy, đổ xung quanh miệng giếng, kế tiếp ông rãi gạo, muối xung quanh số rượu vừa đổ khi nãy. Rồi lùi lại 3 bước, tay rút 3 nén nhang vừa cắm khi nãy giơ cao lên trời, đọc vang lên những câu bùa chú ghê rợn:

Khể thủ quy y Tô đất đế
Đầu diện đảnh lễ Thất câu chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ
Nam Mô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đà Câu Chi Nẫm
Đát Diệt Tha: Án, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha

Đọc xong ông lại gần chúng tôi, nói với chất giọng ghê rợn:

- Các ngươi mau lấy hai chiếc lá này để lên mắt, cho nước nó thấm vào 2 con ngươi. Rồi sẽ mau thấy được những điều mà các ngươi hiếm thấy.

Vâng lời ông cả 3 chúng tôi lần lượt lấy hai lá tre ấy để lên mắt, rồi sau đó nhắm mắt lại đợi đến khi nào ông ấy làm xong nghi lễ mới được mở ra.

Ông hét lớn:

- Hỡi âm binh, ma quỷ. Hãy mau hiện hình, lên đây cho ta mau mau thấy mặt.

Vừa nghe ông ấy kêu gọi đám ma quỷ lên, tôi muốn sợ đến phát khóc. Thần kinh bị giờ căng như dây đàn dễ dàng đứt bất cứ lúc nào. Giờ tôi lại muốn chết, chết để không phải chịu cái không khí ma quái này.

Gió. Lại là nó. Lại chính là cái cơn gió chết chóc ở nơi này nổi lên. Cát bụi bắt đầu bay lên, từng hạt cuốn vào tóc. Những cây xoan, cây xoài quật mạnh trong gió, hàng tre vang lên tiếng ''cót két'' nghe mà thảm thiết, thê lương. Gió càng lúc càng mạnh, tựa như sẽ có một cơn bão sắp kéo đến cuốn phăng đi tất cả. Ba chúng tôi, giờ chỉ còn biết ôm nhau mà tự trấn an.

Ông bắt đầu hô lớn:

- Giờ linh đã tới, các ngươi mau mở mắt ra mà xem.

Nghe theo lời ông, chúng tôi liền mở mắt ra. Tôi còn chưa kịp mở thì chị và mẹ đã hét lớn lên:

- Ôi trời ơi! Ma, ma kìa. Ghê quá thầy ơi.

Chỉ cần mới nghe thấy thôi mà tôi sắp tè ra quần rồi, giờ mở mắt nữa thì chả biết sẽ như thế nào. Cuối cùng, tôi cũng không thể cưỡng lại nổi sự tò mò ấy. Hai con mắt bắt đầu mở nhỏ từ từ ra.

Qủa thật, loại rượu này rất là hiệu nghiệm. Trước mắt tôi, bây giờ là hàng trăm con ma, oan hồn đang hiện diện. Có con ngồi trên cây xoài, con thì bị treo cổ, đung đưa mái tóc bay theo gió. Còn có con thì đi quanh ngôi mộ của nó, còn con thì đi xa tít về phía sương mù ngoài kia. Không con nào mà vẹn nguyên thân thể, không mất đầu thì cũng mất chân, mất tay.

Tôi còn chưa kịp hoàn hồn lại, thì ông ta lại hét lớn tiếp:

- Hỡi con ma nữ yêu nghiệt. Người cư ngụ ở đáy giếng này đã lâu mau ra đây cho ta xem mặt. Nếu không thì đừng có trách tại sao hồn bay phách tán, không thể đầu thai.

Nhanh chóng, những oan hồn xung quanh dường như đã nghe được lời hăm dọa của ông bọn chúng đã chui hết vào mộ để lẩn trốn, vài con khác thì bay vào xa xăm hàng tre. Bấy giờ, ở cái giếng ấy bắt đầu phát ra những tiếng kêu ghê rợn, đầy quái quỷ.

Theo sau tiếng kêu ấy, là một người phụ nữ từ dưới giếng ngoi lên. Hai tay bà ta lên trước bám vào thành giếng, còn người thì lại ướt sũng. Và rồi lại chính khuôn mặt ấy, vẫn là nó. Cái sự lạnh lẽo, u buồn ai oán lại phát lên. Bà ta đã leo lên hoàn toàn khỏi cái giếng mà không có một chút do dự nào cả.

Vị thầy pháp, bắt đầu màn tra hỏi:

- Người có phải là oan hồn mà đã ám ngôi nhà của cậu bé này không.

Bà ta không nói, không rằng. Rồi tự dưng đi một vòng quanh giếng, xong lại ngồi lên đấy.

Vị pháp sư, lớn tiếng hét lên một lần nữa:

- Có phải không?

Bà ta bắt đầu ngước khuôn mặt kì dị của mình lên. Rồi trả lời, nhanh như cắt:

- Phải.

Ông ấy lại hỏi tiếp:

- Tại sao ngươi lại ám cậu bé này, rồi ngươi còn lại giết hại hai đứa nhỏ khác nữa. Tội cuả ngươi đáng để đánh cho hồn phách siêu tán.

Bà ta bước chân xuống, rồi nói:

- Tôi chỉ là người đã gây ra những hiện tượng kì lạ trong nhà, cậu ta thôi. Còn hai mạng người ấy thì là do người khác giết.

Vị thầy pháp cười khẩy, quả quyết nói:

- Ta đã từng đánh bại nhiều con ma, quỷ rồi. Con nào cũng nói rằng là nó vô tội, đổ lỗi cho người khác. Cho nên...ta không tin.

Con ma nữ khuỵu xuống đất, rồi chắp tay van xin thành khẩn:

- Không, xin ông hãy tin con. Con gây ra nhiều việc trong nhà cậu bé ấy chỉ là để tạo ra sự chú ý, mong cậu ta hãy đến nơi đây giúp con việc này. Còn 2 mạng người kia con biết chính xác ai là hung thủ ạ.

Bà ta úp mặt xuống đất, rồi nói tiếp:

- Và cũng chính hắn là người đã giết con năm xưa. Chính hắn đã làm cho hồn con không thể siêu thoát mà mãi vươn động nơi đây.

Ông nói trong sự ngỡ ngàng:

- Ngươi nói vậy là sao? Hai mạng người là do người khác gây ra ư. Ta không tin, ngươi có chứng cớ gì để chứng minh lời nói của mình không.

Bà ta nhanh chóng trả lời:

- Có chứ ạ. Trên tai trái của hắn, năm xưa đã bị con cắn đứt một miếng.

Trong lúc thầy đang bối rối, mẹ tôi bỗng xen lời, nói cho vị thầy pháp:

- Dạ, thưa thầy. Đúng như lời bà ta nói ạ, cả làng này chỉ có một người bị như trên thôi ạ. Đó chính là ông trưởng làng Năm Gù.

Vị pháp sư thắc mắc hỏi:

- Ngươi có thể kể rõ ràng đầu đuôi câu chuyện cho ta được không?

Bà ấy liền gật đầu đồng ý:

- Chuyện là như thế này thầy ạ. 30 năm trước con là người làm công trong nhà của ông ấy. Hồi ấy, con xinh đẹp nhất làng. Cả trai trong làng, lẫn ngoài làng ai cũng tỏ tình những con không ưng ai cả ạ. Rồi chính cái đêm sáng trăng định mệnh ấy. Chính hắn đã hãm hiếp con. Làm con phải mang thai, cái thai thì ngày càng lớn. Cuối cùng thì cha, mẹ con cũng đã biết và đuổi cổ con. Rồi còn bảo ''Mày chết đâu thì chết, đừng để tao thấy mặt mày nữa, không là tao cạo đầu thả trôi sông đấy. Con quỷ cái lăn loàng, mất nết.''.Con sợ chết đứng cả người chạy đến nhà ông ta. Ông ấy liền lôi con vào phòng, đóng cửa lại. Từ trong tay lão ta lấy ra một con dao sáng bóng, lão bảo "Mày phải chết, nếu để mày lộ tin này. Thì tao sẽ phải đi tù mọt gông. Mày nhất định phải chết, con ạ". Ông ấy chạy đuổi theo con khắp cả phòng, do đêm tối con không thấy đường nên đã vấp ngã. Còn hắn lao xuống đâm một nhát chí mạng vào bụng, con chỉ kịp cắn vào một bên tai của hắn thôi. Xong rồi hắn buộc xác con vào một cục đá, thả chìm xuống đáy giếng. Vài tuần sau thì hắn quay lại cùng một tên thầy pháp mặt mày bặm trợn khác, rồi hắn liều mạng lặn xuống giếng hốt xương cốt của con lên. Còn tên thầy pháp kia bỏ con vào một cái hủ sau đó làm bùa phép, khiến con đến tận bây giờ vẫn mãi nơi đây mà không đầu thai siêu sinh được. Xin thầy giúp con ạ.

Vừa nói hết câu chuyện bà ta khóc tiếp. Nhìn chả khác gì con người bình thường. Còn ông thì bối rối chả biết phải xử sự như thế nào, vì ông Năm Gù nổi tiếng là người hiền lành, ăn ở đàng hoàng, thường hay đi chùa giúp đỡ người nghèo. Sao lại có thể là một tên sát nhân cướp đoạt ba mạng người được chứ. Ông bán tin bán nghi, rồi bảo:

- Được thôi, ta sẽ giúp người điều tra. Nếu chính xác ta sẽ báo quan bắt hắn, còn sai thì người đừng có trách tại sao ta ra tay độc ác.

Bà ấy réo lên:

- Vâng... vâng thưa thầy. Con xin lấy cả tính mạng của mình để đảm bảo. Xin ông hãy bắt tên hung thủ, giúp cho con siêu thoát.

* * *

Tất cả chúng tôi đi về nhà, với một nỗi lo âu sâu lắng. Thầy lại bảo tiếp:

- Giờ ta phải làm gì, làm sao để bắt được hắn chuyện đã xảy ra 30 năm rồi. Mà đó chỉ lại là lời nói của một con ma. Ta cũng đã lỡ hứa với nó. Rõ khổ!

Đột ngột trong đầu tôi hiện lên một kế hoạch, mà tôi chắc chắn nó sẽ thành công. Tôi hớn hở nói với thầy:

- Thầy à! Con đã có cách rồi chỉ cần ta tỉ mỉ, cẩn thận là mọi việc sẽ sáng tỏa.

Thầy gật gù đáp:

- Ừm, việc này ta nghe theo con vậy.

(Còn tiếp...)

3 2
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:08:56
Chat Online
DƯỚI ĐÁY GIẾNG HOANG - phàn 1

Chả biết là do cái sợ lấn át tinh thần hay sao mà cảm giác cơn gió ở nơi đây lạnh lẽo, chết chóc, u ám hơn bao giờ hết. Nó thổi ngang qua mái tóc, dọc xuống lưng, rồi thoắt nhanh qua vai, như thể...có một bàn tay vô hình đang chạm vào...

***

Bây giờ đã tháng 11, quê tôi đang là mùa gặt lúa. Từ già trẻ, lớn bé mỗi người mỗi việc tất bật, người lớn làm việc lớn người bé làm việc bé, từ canh năm tờ mờ sáng cho đến khi góc trời phía tây sẩm tối, mặt trời khuất núi. Ai ai cũng mau chóng làm gấp rút để còn thời gian dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa quần áo đón tết, nhưng đặc biệt hơn cả là để có thời gian đi xem hát.

Mọi năm, cứ trước tết khoảng 2-3 tuần thường có nhiều đoàn hát ở huyện, tỉnh về làng tôi. Họ hay diễn các tuồng như : Đường gươm nguyên bá, tuồng Lan và Điệp, Người tình trên chiến trận, Đêm lạnh chùa hoang..... ở cây đa đầu làng gần nhà ông bá hộ Tám.

duoi-day-gieng-hoang

Và thế rồi mùa gặt cũng xong, cứ đến mỗi tối vừa xong bữa cơm là đám trẻ con đầu ba chỏm chúng tôi lại xin bố mẹ cho ra con đê để bắt đom đóm, nói vậy thôi chứ thật ra tôi cùng chúng trốn đi xem hát. Gánh hát về đây làm cho không gian nơi này sinh động hơn bao giờ hết, tiếng trống tùng tùng này, rồi tiếng kèn tò te, tiếng hát của các đào chính đào kép, tiếng rao bán bánh đa, bánh ú, tiếng mời hàng nước của bà cụ Bảy....., những thanh âm ấy chúng tôi chỉ có thể nghe vào buổi sáng thôi, nên giờ cảm thấy thú vị phết. Mong ngày nào cũng được như vậy để cho xóm làng đông vui, náo nhiệt, đầy ánh sáng.

Ngồi trên mỏm đá chờ được một lúc thì giờ diễn cũng đã tới, các binh lính tướng sĩ hình dáng oai vệ bước ra, vị vua hùng dũng oai nghiêm ngồi trên ngai vàng, xung quanh là các cung tần mỹ nữ. Mở đầu vở tuồng chưa được bao lâu thì mây đã bắt đầu chuyển đen, mưa bắt đầu rơi xuống, từng hạt to hạt nhỏ thấm đượm trên vai, kèm theo là những tia chớp vang dậy một góc trời xám xịt rồi từng đợt gió thổi bay cát bụi mù mịt. Ông bầu thấy vậy nên đành cáo lỗi với bà con và xin hứa bù vào đêm mai. Lũ con nít chúng tôi đi về trong nỗi thất vọng tràn trề, cứ tưởng sẽ được xem những màn trình diễn oai hùng giữa anh hùng và tướng cướp, cảnh mẹ già ngồi ở hiên nhà mòn mỏi chờ con về sau chiến trận, cảnh Thúy Kiều liều mình bán thân cứu cha đẫm nước mắt....

Tôi cùng đám bạn đành lê thân về nhà, đến nửa đường thì trời hết mưa, con trăng dần hiện rõ. Dù đi thành 7, 8 người nhưng trong đám đứa nào cũng sợ ma cả mặc dù chưa bao giờ gặp, mà chỉ nghe kể lại từ những người thân trong gia đình.

Con đường để về làng tối om, nhão bùn, có cố căng mắt thế nào đi nữa cũng chả thấy gì ngoài cái không gian bao la màu đen bí hiểm ấy. Sương bắt đầu rơi xuống, cái lạnh đi khắp cơ thể đến từng ngón tay ngọn tóc. Mặt đất thì gồ ghề, lởm chởm những viên đá to, đá nhỏ, có những viên sắc nhọn đạp vào thì chỉ có rách da chảy máu. Đường về đã trắc trở, đã vậy còn phải đi ngang qua bãi tha ma, mồ mã ở đây dày đặc, đông kín, chen chúc nhau như một rừng bia mộ. Chân hương của những cái bát nhang nhiều ngôi mộ đã rụng rời từ lâu vì không có ai đến viếng, và cũng là vì mưa gió ảnh hưởng khiến cho chúng càng thêm bẩn thỉu, thiếu trang nghiêm. Có những cái đã bị đào xớ lên mà chả rõ do ai làm. Những ngôi mộ này tôi nghe bà kể đã có từ thời giặc Pháp, Mỹ, chúng nó bỏ bom chết hàng trăm người, ngay cả dưới chân tôi cũng không chừng đang có một quả bom B52.

Sâu bên trong, đám cỏ mọc lên thay nhau che khuất những ngôi mộ, dưới cái ánh sáng yếu ớt của con trăng mọi thứ ở nơi đây càng thêm mờ ảo, nhìn xa xa vào trong bãi hoang này những cây xoài, cây xoan đứng sừng sững như thể có cả đám người to cao, đang núp trong đó nhìn chằm chằm ra. Chả biết là do cái sợ lấn át tinh thần hay sao mà cảm giác cơn gió ở nơi đây lạnh lẽo, chết chóc, u ám hơn bao giờ hết. Nó thổi ngang qua mái tóc, dọc xuống lưng, rồi thoắt nhanh qua vai, như thể...có một bàn tay vô hình đang chạm vào. Gió làm cho cành lá trên cây va vào nhau xào xạt, những thân tre vang lên những tiếng '' cót két '' ai oán, tựa như ai gào thét trong đêm đen.

Bỗng chốc trong đầu tôi, đột nhiên hiện ra những khung cảnh ma quái, những câu chuyện ma, những oan hồn bà kể nó cứ thế hiện ra mà không thể nào kiềm chế được. Thế là tôi cũng đành bấm bụng, cắn răng lấy hết can đảm mà đi qua, chả đứa nào dám nói với nhau một lời, hơi thở bây giờ cũng khó khăn hơn lồng ngực tựa như ai đang bóp chặt lại, con đường phía trước tối đen, sâu hun hút, ở đây lại còn không có ai ở cả, chỉ toàn cỏ với cây, lâu lâu lại nổi lên vài tiếng chó tru xa văng vẳng.

Đang đi được đoạn, bỗng trong lùm cây sau lưng tôi có tiếng phát ra, ngay khi vừa nghe thấy, cái sợ hãi chết chóc đã chạy dọc sống lưng, những cơn nổi da gà bắt đầu xuất hiện, mồ hôi trên trán và lưng ra như tắm, tim cứ đập thình thịch, hơi thở lại càng gấp gáp. Cả bọn, không dám nhìn nhau, cũng chả ai dám quay lưng ra sau vì đứa nào cũng biết cái gì xuất hiện sau lưng. Tôi chưa kịp bảo cả bọn chạy thì thằng Toàn, nó liền cho tay vào trong túi lấy cục đá to bằng bàn tay người lớn ném phăng vào trong lùm, vừa ném nó vừa hét lớn: '' Mày là người hay là ma có ngon thì ra đây ''. Tôi liền thầm hỏi trong đầu, thằng này hôm nay ăn gì mà gan thế nhỉ, mọi khi nó cũng nhát gan lắm, chả dám làm như thế nay đâu?

Ngay sau câu nói khêu khích ấy, trong lùm cây đã im lặng, khác hẳn với vẻ đáng sợ lúc ban đầu của nó, cả bọn thở phào nhẹ nhõm nghĩ chắc là con rắn hay mèo hoang nó săn mồi đêm. Tôi vừa nhắc chân lên chưa kịp ngoảnh mặt lại, thì ngay lập tức phía sau một bóng trắng mờ ảo xuất hiện, chạy ngang qua bên kia con đường. Chiếc đèn pin duy nhất trên tay thằng Bình đột nhiên tắt. Tôi lập tức hét lớn trong nỗi sợ hãi tột cùng: ''Ma, ma kìa. Chạy mau, nhanh lên''. Vừa dứt tiếng cái bóng ấy liền vồ ra, cái mái tóc đen dài che kín nửa khuôn mặt nó, cái áo trắng toát che khuất không thấy cả đôi chân, dù dưới cái ánh sáng yếu ớt của con trăng nhưng tôi vẫn có thể nhìn rõ nửa mặt bên kia của nó. Cái khuôn mặt trắng bệch, nổi lên từng cọng gân xanh, đầu nó ngã nghiêng sang phải, con mắt sâu hun hút, đen ngòm nhìn trừng trừng vào tôi, ánh mắt thì đầy lạnh lẽo, chết chóc chả khác gì cơn gió lúc nãy. Nhìn sang thằng Toàn, lúc nãy hùng hổ, gan dạ bấy nhiêu thì giờ khuôn mặt nó trắng bệch như cắt không còn một giọt máu. Mấy đứa còn lại nhìn chả khác gì nó. Thế là cả đám ba giò tám cẳng, vắt chân lên đầu mà chạy. Cứ thế mà đâm đầu phía trước, không một đứa nào dám ngoảnh mặt lại phía sau.

Hơi thở càng lúc càng khó, mồ hôi chảy đầm đìa cùng cơn gió lạnh ở cái chốn hoang tàn thổi vào người làm cho tâm hồn, tinh thần càng thêm điên dại, hoảng sợ. Có thằng vừa chạy vừa khóc hét to: ''Mẹ, mẹ ơi! Cứu con, con chết mất''. Bùn trên con đường cứ thế văng vào mặt, vào thân thằng chạy sau. Những viên đá sắt nhọn, cành gai bên đường cắt vào da thịt, từng giọt máu bay ngược về phía sau hòa cũng cơn gió. Chạy một hồi, cũng bắt gặp được một ánh sáng le lói phía trước con đường, cả đám cứ thế mà chạy về phía nó. Càng chạy, ánh sáng ấy càng gần hơn nỗi sợ cùng dần tan biến đi. Bỗng có giọng một người phụ nữ gọi lớn: ''Thằng Nam – tên tôi, mày đâu rồi, trốn tao đi xem hát phải không''. Đang trong cơn hoảng sợ, điên loạn tinh thần tôi liền bừng tỉnh vì biết ánh sáng phía trước chính là mẹ tôi. Chạy đến, tôi ôm chầm lấy mẹ khóc lấy khóc để, bà thấy vậy cũng biết tôi đã gặp gì nên cũng không trách móc, mà dẫn tôi và đám bạn về làng. Mỗi đứa một ngả, đứa nào cũng ôm mặt khóc thút thít.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, vứt cái chăn sang một bên ngáp lấy một hơi dài. Sực nhớ tới cái cảnh tượng hãi hùng đêm hôm qua mà không khỏi rùng mình.

Chưa kịp nhắc chân xuống giường thì bỗng có tiếng phát ra từ nhà bếp:

- Nam à! Xuống nhanh ăn cháo đi con (Mẹ tôi)

Vừa nghe tôi nhanh chóng đáp lại:

- Dạ!

Vừa bước xuống nhà bếp, ăn được vài muỗng thì thằng Phước (trong nhóm đi hôm qua) hớt hải chạy vào báo cho tôi tin khẩn cấp:

- Mày biết chuyện gì chưa?

- Chuyện gì giờ này! Tao mới thức chưa kịp tỉnh thì mày đã chạy sang.

- Mày còn nhớ vụ đêm qua chứ?

- Ừm, tao nhớ.

- Con ma đêm qua tao với mày gặp là giả, do lũ nhóc làng bên bày trò

Nghe xong, tôi bực tức ném cái muỗng xuống bàn:

- Mẹ nó! Cái lũ trời đánh. Mình có gây thù hằn gì với nó mà lại chơi ác như vậy chứ? Được rồi tao sẽ trả thù cho cả nhóm bọn mình.

Đêm đã xuống, gánh hát lại tiếp tục vở diễn hôm qua. Lần này bọn tôi phải nhịn đói trốn nhà từ chiều để đến khu mộ ấy. Mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, thằng Toàn thì trộm lấy bộ tóc giả của chị nó, thằng Bình thì đem theo cái áo trắng, còn tôi thì mượn hộp phấn của chị Hai. Bọn tôi ngồi núp trong khu mộ từ lúc xế chiều cho đến đêm diễn tàn, mọi người ai về nhà nấy. Qủa đúng trời không phụ lòng người, cuối cùng thì 2 '' con mồi '' cũng đã tới.

Nhanh chóng gấp rút tôi đội cái mái tóc giả lên, lấy phấn đánh cho trắng bệch cả khuôn mặt, mặc vội cái áo vào. Thế là hoàn chỉnh. Bọn này đi không mang theo đèn pin hay gậy gọc, phải công nhận một điều là bọn nó gan dạ. Nhớ lại đêm hôm qua bọn nó hả hê cười còn mình thì sợ hãi, phải chạy thừa sống thiếu chết. Mà cơn tức giận trong tôi trào lên.

Nhanh chóng tôi leo lên trên cây xoài cành rào trong khu mộ. Hai thằng con lại thì núp 2 bên đường, giả tiếng chó tru vang cả không gian. Bọn nó bắt đầu đứng khựng lại, dáo dát nhìn xung quanh từ trong bãi mộ cho đến đám cây cỏ bên kia đường. Lợi dụng chúng không để ý tôi liền nhảy toạt từ trên cây xuống. Hai thằng giật hốt cả mình, la toán lên vùng chạy. Nhưng làm sao mà chạy được bởi vì tôi đang nắm chặt áo chúng. Bọn nó chả biết làm gì nữa cứ thế mà quỳ xuống vái lạy: ''Con lạy ngài ma, cô ma tha cho con. Con lỡ dạy, con lại 2 cô ma tha cho con ạ!Con thề, con không quấy nhiễu nơi này nữa''. Tôi liền buông tay ra cười hả hê, còn 2 thằng thì chạy té khói, thằng nào cũng vừa hét vừa chạy.

Tôi đi ra sau hỏi hai thằng Bình, Toàn: ''Sao? Hai thằng mày vừa lòng chưa? Tao đủ trình đóng tuồng chưa. Ha ha ''. Bỗng chả nghe thấy tiếng trả lời của đứa nào cả, tôi hỏi lớn thêm lần nữa. Đáp lại câu hỏi là sự im lặng đến đáng sợ của nơi này. Tôi thầm nghĩ chắc tụi nó bị muỗi chích quá nên chạy về sớm. Hớn hở vì vừa mới trả thù 2 thằng nhóc kia, tôi chạy lại cái giếng trong khu mộ soi mình xuống dưới ngắm nghía thành quả. Không ngờ tôi lạy hóa trang tài tình đến mức như vậy, nhìn xuống giếng tôi còn thót tim nữa mà huống chi tụi nó.

Nhanh chân tôi chạy về làng, chui qua cái khe dưới cửa leo lên giường đánh một giấc tới sáng.

Ngày hôm sau, tôi chạy sang nhà thằng Bình với thằng Toàn để kể lại cho chúng nó cảnh tượng lúc ấy. Đến tới nhà thì thấy bố mẹ chúng ngồi trên giường khóc lóc thảm thiết.

Tôi chạy sang hỏi:

-Cô Năm Hồng ơi, có chuyện gì mà cô chú khóc dữ vậy còn thằng Toàn với Bình đâu rồi ạ?

Cô Năm Hồng nói trong cơn nấc:

- Cô khóc là vì chúng nó đây này, bọn nó trốn đi từ đêm hôm qua đến giờ mà vẫn còn chưa về nhà, biết tìm đâu bây giờ. Trời ơi, tôi khổ quá!

Nghe đến đây tôi giật bắn cả người, chạy về nhà với sự lo âu, sợ hãi đè nặng trên vai.

Tôi thầm hỏi vậy đêm qua bọn nó đã đi đâu? Tụi nó sợ đòn lắm, làm gì mà dám trốn biệt tích tới giờ này?

Ngồi trên giường, sực nhớ đến cái giếng trong nghĩa địa. Tôi lập tức chạy ra sau vườn, hỏi bà.

Bà bảo cái giếng đó đã có từ lâu đời rồi, con ạ. Từng có một cô gái ,trẻ tự tử vì bị cha mẹ đuổi, do có chửa hoang. Chả ai trong làng dám bén mảng đến cái giếng đó cả, mà cái giếng ấy cũng chả có nước dù mưa có lớn như thế nào đi chăng nữa.

Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng, tay chân bủn rủn đứng không vững. Nhớ lại khuôn mặt dưới giếng đêm qua. Ôi trời ơi! Miệng tôi cứng đơ, cổ họng nghẹn lại, tôi khuỵu xuống, từng giọt mồ hôi rơi thắm đất, mọi thứ trước mắt mờ nhòe đi. Chưa kịp thốt lên câu tiếp theo thì, nhà cô Năm Hồng xôn xao tiếng bàn tán. Tôi lập tức chạy vọt ra cửa chính, phóng thẳng qua nhà cô.

Đập vào đôi mắt tôi lúc này không phải là hỉnh ảnh hai anh em nó thường hay ngồi bệch xuống đất chơi ô ăn quan như mỗi ngày. Mà thay vào đó là máu, hai đứa đã chết với khuôn mặt trắng bệt, nước dãi chảy dài hai bên mép miệng, đôi mắt trợn ngược lên, cả tay lẫn chân chúng đều có nhiều vết trầy xước, cắt sâu vào da thịt. Ba người đàn ông trong nhóm tìm kiếm bảo rằng thấy tụi nó nằm trong bụi tre, miệng thì đầy đất cát, khó khăn lắm mới lôi ra được mà cũng chả hiểu bọn nó vào bằng cách nào. Cái khe ấy dù cho một con chó con chui vào cũng khó huống chi là tụi nó. Mẹ nó chạy lại, ôm vào lòng mà khóc, tiếng khóc ai oán làm cho cả làng chết lặng đi, đây có lẽ là hình ảnh ghê rợn nhất mà tôi từng thấy. Bỗng cha nó rờ lên cổ 2 thằng và thấy có những vết cào xướt, hiện lên những con chữ mờ mờ.

Lặng nhìn vài giây, rồi ông đọc to lên: '' Người kế tiếp là mày''. Cả làng ai cũng nhìn chằm chằm vào nhau không biết ''mày'' là ai. Những có lẽ tôi là người biết rõ nhất ''mày'' là ai?

Và đêm nay gánh hát tiếp tụ diễn, tôi bị bắt lại ở nhà vì tội trốn 2 đêm trước, cả làng cũng đã đi hết để xem hát. Chỉ còn lại mình tôi trong căn nhà với khoảng không gian tối tăm, lạnh lẽo. Tiếng gõ mõ tụng kinh siêu thoát linh hồn hai anh em nhà kia. Cơn gió bên ngoài cứ thổi làm cho hai cái cửa sổ đập vào nhau chang chát, ngọn nến đang cháy thì bỗng nhiên tắt dở. Kèm theo đó là tiếng gõ cửa vang lên trong đêm, cùng một giọng nói thì thầm the thé của người phụ nữ.......

3 0
Nguyen Thi Dung | Chat Online Report
Thanh xuân tôi ik xa tui rồi
1 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:06:35
Chat Online
TRUYỀN THUYẾT MA TRÙNG

Ở ngay đầu làng ngày hôm nay, người ta đột nhiên phát hiện ra một cái xác bị đốt cháy đen nhìn không rõ mặt mũi. Cái xác ấy cao chừng mét rưỡi, thân người mảnh dẻ lại có lơ xơ những sợi tóc dài hơi quăn quăn. Người ta phải nhìn kĩ lắm thì mới phần nào đoán ra được có lẽ người bị thiêu rụi này là một người phụ nữ, hơn nữa còn là một người phụ nữ rất trẻ.

Dân làng bu vào chỗ ấy, vây quanh đông lắm. Người ta không biết tại sao lại có cái xác này ở đây, và rằng tại sao xác người phụ nữ này lại bị đốt cháy một cách dã man đến như vậy.

***

truyen-thuyet-ma-trung

Nghe tin người làng báo, ông Đồng là trưởng thôn phụ trách việc công đã nhanh chóng xuất hiện. Mặt ông ta đỏ bừng bừng thở dốc, hẳn là ông ta vừa mới trải qua một chầu rượu say nhòe rồi mới có mặt ở đây.

- Tất cả tránh hết ra xem nào, để người có thẩm quyền như tôi vào giải quyết!

Ông Đồng hét to, vừa đi vừa loạng choạng trực muốn ngã dúi xuống đất.

Vừa nhìn thấy cái bản mặt của ông Đồng xuất hiện, là đám người làng lập tức chuyển sang bu lấy ông kể lể. Có người trình báo nói hăng quá còn văng vãi cả nước bọt tứ tung:

- Sáng nay tôi vừa dắt trâu từ nhà ra đồng, thì đã thấy cái xác nó nằm ở đây rồi. Khổ thân cái người chết cháy, không biết cái quân ác độc dã man nào mà nó lại ra tay tàn bạo đến như thế!

Một người đàn ông vừa cầm cái thừng kéo con trâu, vừa chống tay một bên chỉ trỏ vào cái xác rồi nói:

- Tối qua tôi thấy lửa cháy rừng rực ở chỗ này này, còn tưởng là đứa nào đốt rơm cơ đấy. Hóa ra là chúng nó thiêu người chứ chẳng phải thiêu rơm à?

Một người đàn bà chanh chua cũng xen vào cuộc kể lể:

- Nhìn cái dáng người này, thì khéo là người làng khác chứ chẳng phải làng mình. Bởi làng mình thì làm gì có ai lại dám ra đồng vào ban đêm thế này!

Ông Đồng lắc đầu đến mấy lượt cho thật tỉnh hơi men rồi mới chợt quát to:

- Tất cả im hết đi, toàn nói vớ nói vẩn không có cái gì liên quan đến vấn đề cả!

Nói xong, ông Đồng lại nháo nhác nhìn quanh như tìm kiếm ai đó, rồi chợt rung vai cười hưng phấn chỉ về một phía gọi to:

- Cái thằng Quân đây rồi, mày phong tỏa hết chỗ này lại cho chú! Để lát chú đi trình báo trên xã, nhanh lên không người làng lùa trâu đi qua lại hỏng hết hiện trường bây giờ!

Một người đi ra từ trong đám đông, theo hướng mà ông Đồng vừa chỉ. Đó là một người thanh niên độ chừng hai mươi hai tuổi, lưng rộng dáng cao, có thân hình bệ vệ to lớn. Người này tên là Quân, là dân quân tự vệ của Vũ Thôn. Quân bỏ học từ nhỏ nên chữ nghĩa chẳng có, chỉ chuyên đi làm thuê quét vôi vữa khắp xã. Được dịp tuyển dân quân, ông Đồng thấy Quân to khỏe nên tuyển ngay anh ta vào đội dân quân tự vệ của thôn vì tính Quân vừa cù lì lại dễ sai bảo.

Nghe tiếng ông Đồng gọi mình, Quân đang ngồi xổm một góc quan sát cái xác cũng phải đứng dậy lùi lũi đi về phía ông, đầu hơi nghiêng nghiêng ra chừng không hiểu ý.

Ông Đồng thấy Quân dường như chưa rõ thì liền nhắc lại:

- Mày phong tỏa hiện trường lại cho chú, lấy mấy cái dây thừng buộc với bốn cái cọc gỗ rồi đóng cố định bốn góc vào để chắn cho người ta không dắt trâu qua! Rồi giải tán hết đám đông đi...

Quân nghiêm người hét to:

- Vâng thưa chú Đồng, cháu đi làm ngay đây!

Ông Đồng hơi giật mình vì hành động của Quân. Ông trợn mắt liếc xéo qua lừ anh ta một cái. Sau đó nhìn đám người làng rồi nói:

- Thôi, giờ thì ai về nhà nấy cả đi, ai có ra đồng thì nhớ là dắt trâu vòng qua chỗ này đấy biết chửa? Kẻo phá nát hiện trường là tôi kêu dân phòng kéo lên trên xã nhốt dăm bữa nửa tháng chứ chẳng chơi đâu. Cái tội phá nát hiện trường thì phải quy cho là đồng phạm với cái lũ tội phạm...

Nói xong, ông Đồng chân đi bắt chéo loạng choạng gật gù lao về phía cái chỗ xe đạp dựng gần gốc cây nhãn. Vì vừa rồi ông ta thấy dân tình bu ở quanh cái xác đông lắm nên mới gác tạm cái xe đạp vào thân cây ấy để đi xem xét nhanh cho kịp việc.

Ông Đồng trèo lên xe đạp rồi đạp xe đi mất hút ở cuối con đường mòn của thôn.

Đợi ông Đồng vừa đi khuất, Quân cũng hì hục đem mấy cái cọc gỗ chôn xuống dưới đất, rồi bắt đầu căng dây thừng xung quanh để đòi bảo vệ hiện trường.

Đến trưa, ông Đồng mới về. Lần này ông ta dẫn theo cả một đám người ở xã Cộng Hòa, nào là chủ tịch, phó chủ tịch, bí thư rồi đến cả trưởng công an xã để bọn họ về xem xét.

Nghe tin có người trong xã chết, ở trên huyện cũng cử công an tuyến huyện xuống để điều tra, nhưng cũng phải đến chiều thì mới xuống đến nơi. Trong thời gian ấy, cấp huyện ra lệnh cho cấp xã phải bảo vệ hiện trường và thu thập thông tin để khi có người phụ trách xuống thì còn báo cáo.

Ông Đồng hớn hở lắm, chạy lăng xăng khắp làng để hỏi han, vì nếu như ông mà moi móc được chút tin tức gì thì khéo lại lập công lớn. Cả làng Vũ Thôn đều bấn loạn, có người thì thào nói với nhau rằng:

- Cái xác chết này hệt như cái xác chết một năm trước vào dịp tết, cũng bị thiêu cháy đen hết cả người. Nhưng mà vụ việc ấy xảy ra ở Dương Thôn chứ chẳng phải là ở Vũ Thôn. Nghe bên Dương Thôn cũng đồn là mấy tháng trước cũng có đến vài người chết như vậy mà không rõ lý do. Giờ thì sự việc lan cả từ bên ấy sang bên này rồi cơ đấy!

Người khác lại nói:

- Nghe người ta đồn, cứ mỗi lần chuẩn bị có người chết cháy, là cả thôn bên ấy đều ngửi thấy cái mùi khét, mà khét lắm nhé, khét như mùi đốt nhựa mà cũng chẳng bằng đâu!

Một người lại gật gù nói:

- Thôn mình xưa nay có cái tục là cấm có ai đi đêm bao giờ, vì giờ ban đêm là giờ mà trùng đi bắt người. Ngày xưa làng mình chết mấy vụ như thế nên người ta kiêng lắm, bởi thế cho nên cái người chết cháy này không thể là người làng mình.

Người làng cứ râm ran bàn tán xôn xao, đến chiều thì ở trên huyện cử xuống một đội điều tra gồm ba người. Một người là trung úy công an Trần Chí Kiên, một người là thiếu úy Đinh Xuân Dũng còn một người phụ nữ nữa cũng khá trẻ đẹp mặc sắc phục công an là thiếu úy Hoàng Kiều Như...

Ba người được phòng cảnh sát hình sự thuộc công an huyện Hưng Hà cho xuống để đón đầu điều tra, nếu không tìm ra manh mối thì còn phải mời cả công an tỉnh Thái Bình, công an trung ương về chứ không phải là việc nhỏ.

Việc Dương thôn mấy năm nay có nhiều vụ án xác người chết cháy đen mà người ta không tìm ra lý do. Giờ sự việc lan cả sang Vũ thôn ở ngay cạnh đấy càng khiến cho dân xã Cộng Hòa hoang mang hơn. Có độ mấy nhà còn vì việc ấy mà còn bỏ làng chạy lên vùng cao làm ăn mà chẳng về nữa.

Nghe tin trên huyện cử ba người công an về, ông Đồng mừng lắm, chạy ra đón ngay ở đầu làng rồi tay bắt mặt mừng.

Kiên xuống xe đầu tiên, đi trước hai người còn lại lập tức tiến đến hiện trường để xem xét. Dũng thì lái xe vòng qua một bên còn Kiều Như thì cắp một cái cặp sát nách đang cầm một cuốn sổ gì đó để ghi chép lại vụ việc.

Ông Đồng được dịp vui sướng cười toe toét, cứ bám sau lưng Kiên mà kể lể:

- Được tin ba đồng chí xuống điều tra là tôi đã thu thập thông tin khắp làng rồi đấy. Làng này không có ai mất tích, vậy nên cái xác cháy đen này hẳn chỉ có thể là người làng khác chứ chẳng phải làng tôi.

Nghe ông Đồng giãi bày, Kiên hơi nhau mày suy nghĩ đến một vấn đề gì đó. Anh chui vào bên trong hiện trường, đeo găng tay cao su vào bàn tay rồi bắt đầu xem xét cái xác thật kĩ lưỡng.

Cái xác này là cái xác của một người phụ nữ, qua một số đồ vật trên người cô ta thì có thể đoán được cô ta vào độ hai mươi hai, hai mươi ba tuổi gì đó thôi. Chân cô ta đi giày cao gót và đã bị cháy đen mất một nửa, trên mặt đeo một cặp kính cận cũng đã bị cháy gần hết. Qua nhận dạng sơ bộ cho thấy, người phụ nữ này rất có thể là bị đánh gục ở sau gáy, rồi hung thủ mới bắt đầu ra tay thiêu đốt cô ta. Không những vậy còn là thiêu sống cô ta chứ không phải là chết rồi mới hỏa thiêu.

Kiều Như đứng một bên ghi chép hiện trường, xong một lượt rồi chợt đi đến gần Kiên ghé sát tai anh và hỏi:

- Vụ án này giống hệt ba vụ án trước đó ở Dương Thôn, tình tiết không có gì thay đổi. Điểm khác lạ ở đây là Dương Thôn trước đây đều có người mất tích, còn sự việc lần này lại xảy ra ở Vũ Thôn nhưng lại cũng không phải là người trong thôn.

Kiên cũng gật đầu nói:

- Đúng vậy, tựu chung các cái xác đều có liên quan đến một cách giết người của kẻ sát nhân. Tên này rất có thể là một kẻ cuồng tín. Chuyên án DT26 này được lập ra cách đây ba tháng rồi, vậy mà vẫn chưa có manh mối nào để có thể tìm ra được hung thủ.

Dũng cũng vừa mới từ trên xe bước xuống, anh ta đảo mắt nhìn cái xác một lượt rồi nhìn Kiên nói:

- Vấn đề khó ở đây là việc các nạn nhân giường như đều không có mâu thuẫn gì với ai. Và kẻ sát nhân này ra tay hình như cũng chỉ như là một sở thích thú tính của hắn ta vậy!

Kiên lắc đầu không cho là đúng nói:

- Nếu chỉ là sở thích thì không hẳn, bởi vì các đối tượng mà hắn lựa chọn, lại chính là các cô gái đều còn rất trẻ, hơn nữa đều có một chiều cao quy chuẩn chung là khoảng một mét năm mươi.

Kiều Như chợt suy nghĩ đến một vấn đề gì đó, cô chợt nói:

- Hay là hung thủ muốn giết cô ta ở Dương thôn, nhưng vì sự việc bị vượt ngoài kế hoạch của hắn ta nên nạn nhân mới bị chạy đến đây. Sau đó hắn vì sợ bại lộ nên đã không kiêng kị gì hết mà giết nạn nhân ngay tại chỗ này?

Kiên gật đầu:

- Suy đoán của em rất đúng, rất có khả năng này! Cấp trên ra lệnh cho chúng ta phải báo cáo lại tối đa trong vòng bảy ngày nữa. Theo anh nghĩ, chúng ta nên nằm vùng ở đây một thời gian để điều tra sự việc thì mới kịp được!

Kiều Như cũng gật đầu đồng tình:

- Đúng vậy, nằm vùng là phương án tối ưu nhất. Hơn nữa em nghĩ để tránh hung thủ nghi ngờ, chúng ta nằm vùng ở ngay Vũ Thôn này chứ không phải ở Dương Thôn. Nếu chúng ta nằm vùng ở đây, gã hung thủ ở Dương Thôn sẽ không biết được. Vụ việc con cá lọt lưới hắn giết lan sang cả Vũ Thôn này rất có thể chỉ là một sự sơ xuất của hắn ta mà thôi.

Dũng lại hỏi:

- Vậy còn cái xác này thì sao?

Kiên trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi mới trả lời:

- Trước hết chúng ta đem xác nạn nhân chuyển về cục giám định pháp y để xác minh thân phận, đồng thời cử một người bí mật qua Dương Thôn dò xét xem có ai bị mất tích hay không, tránh việc nằm vùng bị bại lộ.

Nghe Kiên bài trí, cả hai người còn lại đều đồng ý nghe theo.

Sau đó, cả ba người đồng loạt rời khỏi hiện trường mang theo cái xác về cục công an tỉnh Thái Bình.

Hai hôm sau, cả ba người đều trở lại một cách bí mật và mặc thường phục. Họ cải trang thành ba người bán đổ một xe cam sành ở ngay đầu thôn, rồi lân la hỏi thuê một căn nhà vắng ở trong thôn để tiện bề hành sự. Nhưng thật không may cho họ là học không thể thuê được căn nhà ấy vì người chủ căn nhà ấy bệnh nặng nên người nhà không tiếp.

Cuối cùng bất đắc dĩ, ông Đồng vào sẩm tối đêm hôm ấy được đám người của Kiên triệu tập ra nhà văn hóa của thôn để bàn bạc.

Nhìn thấy mấy người Kiên, ban đầu ông Đồng còn hơi ngờ ngợ vì đúng là trước đó ông mới chỉ gặp họ có đúng một lần, mà lại chỉ gặp thoáng qua một chốc rồi họ đi ngay. Lần này đám người của Kiên về chỉ mặc thường phục, lại đứng ở đầu nhà văn hóa của thôn không tự giới thiệu nên ông Đồng cứ ngỡ mình gặp phải người lạ. Phải đến khi Kiên kéo ông ta quay lại nói thầm vào tai ông ta mật lệnh của cấp trên thì ông ta mới biết.

- Ôi! Thì ra là đồng chí công an huyện đấy à? Vậy mà tôi không nhận ra...

Kiên đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra giấu suỵt khẽ khàng nói:

- Ông nhỏ tiếng thôi! Bại lộ hết sự việc bây giờ, giờ chúng tôi cần ông sắp xếp cho một chỗ nghỉ ngơi tạm thời trong làng để nằm vùng điều tra, phải thật bí mật đấy ông biết chưa?

Ông Đồng hơi ngẩn người, rồi chợt như hiểu ra. Ông ta vội vã hồ hởi nói:

- Chuyện đấy thì không khó gì, mấy đồng chí cứ đến nhà tôi ở mấy hôm. Thôi, đi nhanh lên không kẻo trời tối mất!

Ông Đồng nói xong liền quay đầu, kéo tay Kiên đi theo cùng. Thì Kiên liền giữ tay ông ta lại rồi nói:

- Chúng tôi tạm thời chưa đi theo ông được, tối nay chúng tôi còn phải tranh thủ điều tra. Đến đêm khoảng hơn mười giờ ông lại ra đây đón chúng tôi về nhà ông nghỉ tạm.

Ông Đồng nghe thấy thế liền không đồng tình. Ông ta hoảng sợ xua tay nói:

- Không được đâu! Người làng này có cái lệ là trời tối thì không được đi ra ngoài vì sợ trùng bắt. Các đồng chí cũng nên thế, đi theo tôi về nhà nghỉ ngơi đi, rồi ngày mai đi điều tra vào lúc sáng sớm cũng được!

Nghe ông Đồng nói vậy, Dũng liền liếm môi hiếu kỳ hỏi:

- Trùng bắt à? Trùng là cái gì mà người làng ông sợ thế?

Kiên cũng gật đầu tỏ vẻ khó tin nói:

- Việc này liên quan đến án mạng người, không đùa được đâu, ông đừng có mà linh tinh với chúng tôi nhé!

Ông Đồng giãy nảy lên nói:

- Tôi nói thật chứ nào có chuyện nói đùa. Làng này ngày xưa có cái truyền thuyết về cái giống ấy thật. Mà nghiệm mấy đời nay dòng họ nhà tôi cũng cấm có sai bao giờ!

Kiều Như cũng rất hứng thú với việc này, cô liền nói:

- Vậy ông mau kể rõ mọi chuyện cho chúng tôi biết đi. Kể càng chi tiết càng tốt!

Ông Đồng nháo nhác nhìn xung quanh một chặp rồi nói:

- Thôi được rồi, kể thì cũng được thôi. Nhưng giờ đã sắp tối, sắp đến cái giờ cấm kị của làng rồi. Mấy đồng chí cứ theo tôi về nhà, lo cơm nước xong xuôi đã, rồi thì để đóng cửa ngồi trong nhà tôi kể cho mà nghe.

Thấy ông Đồng cứ nằng nặc khẳng định, đám người của Kiên không biết làm cách nào khác đành phải nghe theo. Bọn họ theo chân ông Đồng đi về nhà ông ta.

Về đến nhà, vợ ông Đồng là bà Chì, nhìn thấy chồng dẫn theo ba người rất trẻ về nhà, hơn nữa lại còn nói chuyện rất khách sáo thì liền biết là khách quý. Không chờ chồng dặn, bà Chì đã nhanh chóng thịt gà làm cơm tươm tất để đãi khách.

Khi bà Chì làm xong mâm cơm, bê mâm lên nhà trên là cũng vừa lúc trời đổ tối sầm. Bà Chì cho gà lên chuồng, sau đó đóng cửa cổng, cửa nhà lại. Rồi dặn cái Liễu con gái bà cũng ngừng việc vãi lúa ngoài sân mà nhanh chân vào nhà trên để cài then.

Cả nhà quây quần bên mâm cơm, trong đó có rất nhiều món quê mà nhà ông Đồng đem ra thết đãi ba người Kiên, Kiều Như và Dũng.

Trong mâm cơm quây quần, Dũng vừa gắp xong miếng thịt gà vào trong bát thì liền bỏ đôi đũa đặt xuống cạnh mâm, nhìn ông Đồng với vẻ sốt ruột rồi hỏi:

- Được rồi! Giờ thì chúng tôi đều đã ở trong nhà theo tục lệ của làng. Ông có thể đem việc ấy kể cho chúng tôi biết được chưa?

Hai người Kiên với Kiều Như cũng dừng hẳn gắp thức ăn, chăm chú nhìn ông Đồng và chờ ông ta giải thích.

Ông Đồng đem cái đũa quẹt qua miệng đến mấy lần để lau mỡ, rồi mới suýt xoa nói:

- Tôi nói các đồng chí ở trên huyện lại không tin, lại cho là dân Vũ Thôn chúng tôi mê tín, chứ quả thực là chuyện này có thật. Nó được để lại cái tục này từ thời cụ cố tôi kia, cho đến bây giờ thì cũng chưa từng có ai dám phạm vào. Mà người có từng thử phạm vào cái quy tắc ấy thì giờ cũng không còn sống để mà kể lại nữa.

Cái Liễu con gái ông Đồng ngồi bên cạnh bố cũng gật đầu phụ họa nói theo:

- Phải đấy các anh chị ạ! Hồi bé em còn tận mắt trông thấy có lần trùng bắt người nữa cơ mà!

Kiên hơi khẩn trương, giọng anh gấp gáp hỏi dồn:

- Thế trùng nó là cái gì? Ông giải thích rõ cho chúng tôi biết xem nào? Ông cứ vòng vo tam quốc mãi làm chúng tôi chẳng hiểu cái gì cả.

Ông Đồng cười, gãi đầu gãi tai nói:

- Thì cũng phải để tôi kể ngọn ngành mới rõ mọi chuyện được chứ! Liễu, đi vào trong buồng lấy mấy tập ảnh cũ của ông bà ra đây cho bố!

Nghe ông Đồng gọi, Liễu đang ăn liền vội bỏ bát cơm xuống mâm, rồi lẹ làng đứng dậy chạy vô buồng trong lấy ra một xấp ảnh rất cũ kĩ đen trắng, rồi đưa cho ông ta.

Ông Đồng đón lấy xấp ảnh, rồi nhấp một ngụm rượu cay xè nhăn trán rồi mới bắt đầu kể chuyện:

- Trùng này có lời kể từ xa lắm rồi, từ thời cụ nội tôi mà vẫn còn chỉ biết nó là cái tục không biết bắt đầu từ đâu. Nghe nói nó bắt nguồn từ cái nghiệp mà tổ tiên dòng họ cái người khai khẩn ra đất này. Người này vì khi sống trộm nhiều của cải bất nhân, nên khi chết bị người âm cho trùng về bắt hết con cháu cho tuyệt tử tuyệt tôn. Việc nếu chỉ có thế thì không nói làm gì, nhưng nghe đồn là con cháu người này khi chết đi, lại còn báo nhầm sang tên của người họ khác, thành ra là trùng cứ bắt nhầm, bắt loạn hết cả làng. Sau cùng thi nó không kiêng kị gì bắt theo tên họ nữa, mà cứ người nào ở trong Vũ Thôn này ban đêm mà ra ngoài là nó bắt tất!

Bà Chì cũng tiếp lời chồng:

- Phải đấy các chú ạ, người mà bị trùng bắt chết đáng sợ lắm. Miệng cứ há hốc hết cả ra, mà da thịt nó cứ nhợt nhạt hết cả lên. Tôi có thằng cháu họ, cũng phá lệ đi đêm về, thế mà cũng chỉ vì uống rượu thôi đấy, vừa về đến cổng là lăn ra chết đến nhăn răng.

Liễu cũng nói:

- Sau hôm anh ấy chết, trùng vẫn chưa chịu tha các anh chị ạ. Người nhà em đêm hôm nào cũng nghe thấy tiếng anh ấy gọi ra mở cửa. Là do trùng hóa thành, muốn lừa người nhà ra ngoài để nó bắt nốt đấy! Sợ lắm...

Ông Đồng hơi gật gù, lại kể thêm:

- Tôi nghe nói ở vùng khác hình như cũng có trùng. Chúng xuất hiện khi nhà mới có người chết, và thường hay hóa thành giống chim lợn đậu ở bờ rào ấy. Rồi đêm đến khi người ta ngủ say, chúng giả giọng người thân hay bạn bè người trong nhà gọi cửa. Nếu người ta mà đáp lại trả lời là chết với chúng ngay!

Ông Đồng vừa kể, lại vừa đem xấp ảnh cầm trên tay ra chỉ trỏ để thuyết trình:

- Đây này, ảnh này là ảnh bà nội tôi, cũng là cụ nội của con bé Liễu. Hôm ấy cũng chính mắt con Liễu nó nhìn thấy trùng bắt người. Liễu, kể lại cho các anh chị nghe đi con...

Ông Đồng vừa nói vừa hối Liễu kể lại tường tận.

Liễu tranh thủ uống một ngụm canh rồi cũng bắt đầu kể rành rọt:

- Em nhìn thấy thật đấy mấy anh chị ạ, hôm ấy cụ nội em sống chết đòi ra ngoài vại nước ở chỗ đầu sân. Cụ kêu là cụ nghe thấy tiếng ông gọi, cụ bảo là cụ nghe thấy cụ ông kêu cứu, là ra nhanh lên không cụ ông bị trùng nó bắt chết mất. Mà cụ ông thì lúc ấy vẫn ở trong buồng ngủ rõ ràng mà lại. Thế mà cụ bà như ma xui quỷ khiến thế nào, cứ đâm đầu ra thôi. Thế là ôi thôi, cụ ra ngoài chưa được chục bước thì em thấy có cái bóng lửa lập lòe ở chỗ bờ rào. Nó chồm về phía cụ, rồi cụ ngã lăn ra ở sân, miệng há hốc hết cả ra, mắt mở to mà da nhợt nhạt như người chết trôi. Lúc ấy bố mẹ em đi vắng hết, có mỗi ông bà ở nhà thôi. Em còn bé nên có biết cái gì đâu. Chỉ đòi ra kéo cụ vào nhưng ông bà em không cho. Đến sáng hôm sau mới có người dám ra đem xác cụ mang đi khâm niệm đấy!

Nghe Liễu vừa nhấn nhá kể vừa quyết liệt khẳng định, ba người Kiên tuy là công an trước nay đã từng đối mặt với nhiều tình tiết ghê rợn cũng phải hơi hơi gai người.

Một lúc sau, Dũng không cho là đúng, anh nói:

- Dân gian ta thường hay có mấy cái chuyện trùng hợp rồi mê tín, lại nói bà cụ chết, không khéo là trúng gió chứ chẳng phải là thứ trùng gì!

Kiều Như cũng hơi gạt mồ hôi, cô bình tĩnh suy xét mọi sự:

- Lại nói đến tình tiết của vụ án, tại sao nạn nhân không phải là người làng này. Rất có thể là vì hắn sợ cái tích chuyện trùng bắt người như thế này, nên không dám lộng hành ở Vũ Thôn. Chúng ta có thể nhân chuyện này, lấy đó làm vỏ bọc thật tốt để ẩn náu tại đây. Rồi hằng đêm bí mật đi qua Dương Thôn để điều tra, nhất định có thể sẽ có được manh mối!

Kiên gật đầu đồng tình với hành động của hai người rồi nói:

- Tình tiết vụ án sáng tỏ hay không mấu chốt nhất chính là vào lúc này! Ba tháng trôi qua, thời gian các nạn nhân chết ngày càng gần nhau hơn. Vụ án thứ hai cách vụ án thứ nhất một tháng, vụ thứ ba thì là nửa tháng, đến vụ thứ tư là một tuần. Thời gian các vụ án cứ chia nửa ra liên tục như một quy luật. Nếu tính toán là như vậy, thì đêm nay hẳn là hắn ta sẽ lại tiếp tục giết người nữa đây!

Kiều Như gật đầu tiếp lời:

- Khoảng thời gian cô gái tối qua chết giám định pháp y cho biết là vào đúng chín giờ tối. Như vậy tối nay cũng rất có khả năng hung thủ ra tay vào chính khoảng thời gian này.

Dũng cũng nói theo:

- Vậy chúng ta ăn xong nhanh đi, rồi còn phải qua Dương Thôn điều tra ngay thì mới kịp!

Nghe ba người nói như vậy, ông Đồng hoảng sợ xua tay không đồng tình nói:

- Mấy đồng chí tuyệt đối không được làm như vậy, việc mà chúng tôi kể ra đây là có thật. Mấy người không tin cũng không sao, nhưng cũng không nên đi, nhỡ xảy ra vấn đề gì thì tôi biết ăn nói sao với lãnh đạo huyện?

Kiên bình tĩnh cười, trấn an ông Đồng:

- Việc này sẽ có người ở chính quyền xã báo cáo thay ông. Chúng tôi là công an, không vì mấy cái lời kể mê tín này mà lung lạc được đâu. Giờ đang là lúc nước sôi lửa bỏng, hung thủ sắp ra tay giết người. Chúng tôi không ngăn cản được thì cũng như tội đáng phải chết. Vì thế nên dẫu có là bị cái giống trùng gì đó như ông kể hãm hại, chúng tôi cũng vẫn phải đi.

Ông Đồng thở dài, biết là không can ngăn được quyết định ba người nên chỉ dặn dò vài câu:

- Trùng bắt người đều có lý do cả đấy! Ba người đi ra ngoài vào ban đêm thì cũng được, nhưng nếu ở trong địa phận thôn này thì tuyệt đối đừng nói câu nào. Ra khỏi thôn rồi hẵng nói, mà có nghe thấy tiếng nhau gọi thì cũng đừng tin đấy là thật đấy nhé. Có thấy người bị nạn hay bị thương gì đó thì cũng đừng có chạy tới hỏi han, cứ làm ngơ đi cho tôi!

Kiên thấy mình không đồng ý với ông ta thì không xong, lại nghe ông ta lải nhải cả buổi nên bèn tặc lưỡi hứa chắc nịch với ông ta cho qua:

- Được rồi! Chúng tôi sẽ không nói gì hết, mà cũng không giúp ai hết. Ông yên tâm đi, đến lát nữa tối mịt bọn tôi về thì ra mở cửa cho bọn tôi vào!

Ông Đồng xua tay nói:

- Gọi tôi cũng chẳng dám mở. Đây, tôi đưa mấy tấm ảnh, khi nào về thì cứ luồn nó qua khe rồi gõ cửa, tôi trông thấy thì sẽ mở cửa cho mấy người vào!

Kiên đưa tay cầm lấy mấy tấm ảnh, rồi cẩn thận đút vào túi áo cho khỏi rơi.

Ăn xong bữa cơm, cả ba người bắt đầu chuẩn bị vũ trang đầy đủ để qua Dương Thôn phục kích hung thủ.

Ba người bước ra khỏi nhà ông Đồng, là đã lập tức rảo bước đi thật nhanh hướng tới Dương Thôn. Vì Vũ Thôn không có ai dám ra ngoài vào ban đêm như thế này, nên cả ba người không cần phải trốn tránh bất cứ ai phát hiện khi di chuyển, mà cứ đi lại nghênh ngang trên đường làng.

Đường đêm vắng vẻ tịch mịch, lại chỉ có thể nhìn thấy bóng đèn điện từ mấy hộ hắt ra mà không có đèn đường. Cả ba người phải cẩn thận đi sát vào nhau để tránh việc bị lạc, hơn nữa lại còn phải im hơi lặng tiếng cố gắng không phát ra bất cứ một tiếng động nào.

Mặc dù không tin lời của ông Đồng dọa dẫm lắm, nhưng cả ba người vẫn cố gắng rời khỏi địa phận Vũ Thôn rồi mới bắt đầu thì thầm bàn bạc với nhau:

- Đã tám giờ tối rồi, sắp đến giờ hung thủ hành động! Giờ này người Dương Thôn vẫn còn chưa ngủ, hai người đoán xem, hắn sẽ lựa chọn ra tay ở đâu?

Kiên ngồi cạnh một bụi cây, dùng giọng cẩn thận phân tích nói.

Hai người Kiều Như với Dũng cẩn trọng suy nghĩ, rồi cũng phát biểu đôi lời:

- Mọi lần trước đều phát hiện cái chết của những cái xác ở ở đường đê ven sông, như vậy thì lần này rất có thể cũng sẽ xảy ra ở đó!

Kiều Như khẳng định nói như vậy.

Kiên không cho là đúng, anh nói:

- Tôi lại nghĩ khác, cách mà hắn lựa chọn để thiêu đốt nạn nhân, giống như là thực hiện một nghi lễ tế nào vậy. Rất có thể hắn thuộc một loại tôn giáo nào đó trên thế giới, sùng về đạo, thờ cúng quỷ Satan chẳng hạn nên mới làm như thế. Việc hắn giết người theo quy luật, rất có thể là để gọi con quỷ lên để mưu cầu lợi ích cá nhân. Thế cho nên, hắn sẽ chọn một nơi khuất gió và kín người. Đường đê quá nhiều gió vì ven sông, mà thực hiện thiêu xác ở đó sẽ bị người ta phát hiện, cho nên không phải!

Dũng nhăn trán nhéo mày hỏi:

- Nhưng rõ ràng mọi lần những cái xác đều xuất hiện ở đường đê cơ mà, hắn không ra tay ở đó thì ra tay ở đâu?

Kiên gõ vào đầu Dũng một cái chửi xéo:

- Cậu dốt thật, học ngành công an mà không biết hung thủ còn có thể ngụy tạo hiện trường giả hay sao?

Dũng lắc đầu nói:

- Không phải là em không biết việc ấy, nhưng hắn không thể nào ngụy tạo hiện trường giả khi cả nền đất cũng bị đốt được! Không có lẽ...

Dũng đang nói nửa chừng liền tỏ vẻ kinh sợ, rồi không dám nói tiếp.

Còn Kiên thì gật đầu, trả lời nối tiếp cho suy đoán của Dũng:

- Cậu suy nghĩ chính xác rồi đấy, hung thủ chính là thiêu sống nạn nhân, rồi ép nạn nhân di chuyển khi cô ta đang bị cháy rừng rực lửa, một hành động cực kỳ tàn bạo.

Kiều Như nuốt nước bọt, trong cổ họng cô cảm thấy hơi kinh tởm vì thủ đoạn như vậy. Nhưng suy cho cùng, Kiều Như cũng là công an nên loại cảm giác vừa rồi cũng rất nhanh bị cô lấn át đi rồi biến mất không còn suy nghĩ đến.

Tám giờ bốn mươi lăm phút tối, còn chính xác đúng mười lăm phút nữa là khoảng thời gian mà hung thủ hành động. Cả ba người vẫn chưa đoán biết được hiện trường mà kẻ thủ ác chọn làm nơi gây án.

Cuối cùng, bọn họ bất đắc dĩ phải đồng ý. Tuy đường đê không phải là nơi đầu tiên gây án, nhưng cũng có thể trông thấy hung thủ, chỉ cần đến khi ấy bọn họ ra tay thật nhanh chóng, là vẫn có thể kịp cứu nạn nhân khỏi bị chết cháy, mà cũng có thể nhanh tay khống chế được hung thủ rồi bắt hắn ta về quy án.

Mọi kế hoạch được thống nhất một cách gọn lẹ, ba người trốn trong một cái chòi canh đê bị bỏ không. Rồi cẩn trọng chờ đến giờ hung thủ có khả năng xuất hiện.

Đúng như việc bọn họ dự đoán, tuy muộn hơn khoảng một phút thôi. Nhưng hung thủ đã thực sự ló mặt, và điều khủng khiếp hơn nữa là quả nhiên nạn nhân cũng xuất hiện theo. Như Kiên suy luận ban đầu, nạn nhân ấy đúng là đang bị bốc cháy rừng rực lửa. Một gã đàn ông chừng trung niên, đi một chiếc xe tải chở nạn nhân trói ném cô ta ở đằng sau thùng xe. Và khi đến giữa đường đê, gã ta lại tiếp tục đổ ben cho cô gái rớt xuống đất. Sau khi cô gái bị rớt xuống đất, gã ta còn cẩn trọng dùng chổi quét kĩ càng từng vết lốp bánh xe sau khi chiếc xe đi qua để xóa đi vết tích.

Đoàng!

Không chờ thêm được nữa, Kiên bắt đầu nổ phát súng đầu tiên phát động cuộc vây bắt truy lùng hung thủ. Dũng như chỉ chờ phút giây ấy, anh được phân công lao tới cứu lấy cô gái. Anh đã chuẩn bị sẵn một tấm vải thấm đẫm nước, khi Kiên vừa phát động tấn công là anh đã xông tới chùm kín chăn ướt vào thân người cô ta để dập lửa. Mọi việc được diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Kiều Như xông lên chĩa súng vào người đàn ông ngồi trong cabin chiếc xe tải kia để buộc hắn ta phải đầu hàng.

Nhưng gã quả là một người liều lĩnh, mặc cho Kiều Như uy hiếp bằng súng. Gã vẫn nhấn ga xe tô chạy như bay thoát khỏi tầm mắt cô.

Đoàng đoàng!

Hai phát súng nữa được Kiều Như bắn ra, nhưng hai loạt đạn ấy dường như chỉ làm bị thương vào cánh tay của tên hung thủ, còn việc ép hắn phải dừng xe lại thì không thành công.

Kiên tiếp cận định nhảy vô lên nắp thùng xe nhưng đã bị hung thủ mau lẹ đổ ben khiến anh lại ngã dội ngược trở lại.

Tức mình, Kiên chửi đổng một tràng:

- Mẹ khiếp thật! Gần như thế rồi mà còn vồ hụt.

Chiếc xe tải dần dần khuất bóng ở cuối đường đê. Dũng cũng đã thành công dập được lửa cứu cô gái bị thiêu cháy. Tuy vậy, tuy rằng cô ta không chết những cũng bị bỏng rất nặng.

Dũng đỡ cô ta dậy rồi nhân lúc cô ta còn đang tỉnh táo thì nhanh chóng khai thác thông tin về hung thủ, anh hỏi:

- Cô gái, cô có nhớ mặt hắn ta không? Cô có biết hắn ta là ai không?

Cô gái thì thào, cả người cô run lẩy bẩy:

- Tôi... có...

Cô nói được tấm hai tiếng ấy thì lăn đi ngất lịm, Dũng cố sức lay mãi mà cô ta chẳng tỉnh được. Bất giác Kiên đành phải chen ngang:

- Thôi đi Dũng, cậu đừng lay nữa. Cậu không thấy cô ấy kiệt sức rồi hay sao. Tạm thời cậu bế cô ấy lên trạm xá xã đi. Rồi đêm nay chúng ta thay phiên nhau canh gác cho cô ấy. Tôi đoán chắc hung thủ biết rằng cô ấy không chết, sẽ tìm đủ mọi cách để ra tay và giết cô ấy đấy.

Kiều Như cũng đồng tình, cô nói:

- Vậy trước để anh Dũng trông cô ấy đến khoảng hai giờ sáng. Chúng ta về Vũ Thôn nghĩ ngơi rồi thay phiên nhau canh chừng, đến sáng mai nhất định sẽ có xe cứu thương từ trên huyện xuống để đưa cô ấy đi chữa trị ở viện huyện.

Dũng gật đầu nói:

- Được rồi, vậy hai người cứ về Vũ Thôn nghỉ ngơi trước đi, tôi sẽ canh chừng cô ấy, nếu có tin gì thì tôi sẽ gọi điện cho hai người. Hai người nhớ đừng tắt điện thoại đấy nhé!

Nói xong, Dũng bế cô gái chạy về hướng trạm xá xã. Trạm xá xã nằm ở ngay đầu Vũ Thôn và cũng ở ngay gần Dương Thôn, nó là nơi giáp danh của hai thôn này. Nếu có xảy ra việc gì, chỉ cần Dũng gọi điện là hai người Kiên và Kiều Như hầu như sẽ rất nhanh có mặt để hỗ trợ.

Nhìn bóng Dũng đi khuất, Kiên nhoẻn miệng cười nhìn Kiều Như rồi nói:

- Tốt rồi, cậu Dũng cũng đi rồi! Giờ thì chúng ta có thể thoải mái với nhau hơn chứ.

Kiều Như chợt hơi đỏ mặt nói:

- Đến lúc nào thì anh mới tính công khai chuyện chúng mình yêu nhau đây? Rồi cả anh Dũng mà anh cũng giấu nữa...

Kiên nhấn ngón tay trỏ vào cái mũi trắng nhỏ xinh của Kiều Như nịnh hót:

- Anh không sợ thì em sợ cái gì! Chỉ sợ là người anh yêu xinh đẹp quá bị nhiều chàng theo đuổi, lại bỏ anh mà đi thôi!

Kiều Như hơi quay đầu bẽn lẽn, cô đi trước giả bộ không thèm nói chuyện với Kiên. Kiên cười, anh chạy tới nắm tay Kiều Như, rồi cả hai cùng đi về hướng Vũ Thôn.

Trong lúc ấy, bọn họ không biết rằng chiếc xe tải vừa mới chạy thoát đã quay ngược trở lại. Người đàn ông ngồi trong cabin chiếc xe tải hút thuốc lá rơi rụng lả tả tàn thuốc. Gã ta nhìn hình bóng hai người biến mất vào màn đêm mà đôi mắt tỏ ra sắc lạnh đến lạ kỳ.

Về đến đầu Vũ Thôn, Kiều Như với Kiên vẫn nắm tay nhìn nhau liếc mắt đưa tình. Hai người bọn họ đi vào trong con đường của thôn, vừa đi vừa chậm rãi ngắm nhìn sao trời.

Đang trong phút giây tình tứ ấy, thì Kiều Như chợt nhìn thấy có một bà già ngã ngất gục ở bờ ao ngay cạnh con đường của thôn. Kiều Như liền quay sang gọi Kiên nói:

- Anh Kiên, hình như có người bị ngã kìa!

Kiên cũng ngoái đầu nhìn theo hướng mà Kiều Như vừa mới chỉ, anh liền gật đầu nói:

- Ừ, đúng là có bà cụ ngã thật! Chúng ta ra giúp bà ấy...

Nhưng Kiều Như chợt lay tay của Kiên rồi nói:

- Ông Đồng đã căn dặn rồi mà, là thấy có người khác mà có gặp nạn thì cũng không được ra tay cứu giúp, kẻo cứu phải trùng đó anh!

Kiên đột nhiên cười, rồi lấy ngón tay gõ nhẹ trán Kiều Như nói yêu:

- Em là công an mà lại dám ăn nói mê tín như vậy hả, có tin anh báo cáo lên cấp trên là sau này cho em khỏi thăng chức không?

Kiều Như hơi cong môi, nhe hàm răng khểnh cười duyên dáng, hai mắt cô díp nhỏ xíu trông rất tươi đẹp đáp lại:

- Vậy thôi nghỉ yêu!

Kiên vờ thảng thốt, trừng mắt bộ liếc xéo:

- A! Em dám!

Kiều Như che miệng cười rồi xua tay:

- Thôi không đùa cợt nữa, thế rốt cuộc là có giúp bà cụ hay không đây?
Kiên ưỡn ngực khẳng định:

- Giúp chứ sao lại không giúp.

Rồi anh xắn tay áo, lăng xăng chạy tới gần bà cụ hỏi han đỡ bà ta dậy, nói:

- Trời ơi cụ làm cái gì mà trời khuya trời khoắt như thế này còn mò ra ao chi vậy? Con tưởng là thôn mình kiêng kị cái trùng chiếc gì lắm cơ mà, cụ ra đây ngã thế này rồi con cháu có biết không?

Kiên đỡ bà cụ lên hỏi như vậy, Kiều Như đứng xa xa ở ven đường thấy Kiên hỏi bằng mấy câu như vậy thì liền che miệng cười thích thú.

Kiên thấy Kiều Như đứng ven đường cứ cười bèn nói:

- Cô kia con cái nhà ai, sao không giúp bà cụ mà cứ đứng đó cười mãi vậy, người gì đâu mà vô duyên.

Kiều Như vẫn cười, cô bẽn lẽn định đi tới gần chỗ Kiên, chỗ bà cụ để giúp đỡ. Nhưng vừa bước được hai bước thì chợt nụ cười trên môi cô dần tắt hẳn. Mà nét mặt của Kiều Như thoáng chuyển sang sự kinh hãi.

Kiên đang hỏi han bà cụ, chợt quay sang nhìn Kiều Như liền thấy cô có nét mặt như vậy thì vội hoảng hồn hỏi:

- Kiều Như, em làm sao vậy?

Kiều Như lắp bắp, miệng nói ngắt quãng, tay run rẩy chỉ nói:

- Anh Kiên, bà cụ... bà ta... không phải là người đâu...

Kiều Như nói xong mấy câu mà như muốn ngất xỉu. Kiên cười, cho rằng Kiều Như lại đang nhát mình, anh nói:

- Được rồi, người hay không phải là người thì cũng mời cô nương xuống đây giúp dùm đi chứ.

Kiều Như cứ há to miệng, như muốn nói lắm nhưng nói không sao ra miệng. Kiên chợt ngoái đầu quay lại nhìn thì anh giật thót mình.

Hỡi ôi, cái gương mặt bà cụ sao có đôi mắt đen sì sì, miệng bà ta đang mở ra nhe răng nanh dài nhếch mép đầy kinh tởm.

Kiên hãi quá, liền vung tay đẩy phắt bà ta xuống đất. Nhưng lạ thay cái cánh tay gầy gò của bà ta cứ ghì chặt vào thân người anh khiến anh không sao động đậy được. Cả thân người anh đơ cứng, đôi chân run run không sao đi nổi.

Đoàng!

Đúng lúc này Kiều Như liền nổ một phát súng như cứu nguy. Cả thân người Kiên chợt cảm thấy nhẹ nhõm, cánh tay khoác lên vai anh cũng đã biến mất. Khi Kiên quay người nhìn lại thì cũng đã không thấy bà cụ đâu cả.

Anh hoảng sợ quá, liền kéo tay Kiều Như chạy như bay về phía nhà ông Đồng.

Về đến nơi, anh nhanh chóng rút tấm ảnh từ trong túi áo ngực ra định bụng đút qua khe cửa. Lúc này anh mới có dịp nhìn kĩ, cái người trong ảnh chụp này, lại chính là cái bà cụ vừa lúc nãy anh và Kiều Như gặp.

Kiên đập mạnh vô cửa nhà, rồi nhét nhanh tấm ảnh qua khe cửa gọi to:

- Ông Đồng, mở cửa cho chúng tôi nhanh lên!

Nghe tiếng động mạnh, ông Đồng hơi giật nảy mình. Nhưng ông ta cũng đã chuẩn bị trước tâm lý, nên cũng không cảm thấy ngạc nhiên cho lắm. Rất nhanh, ông ta đã phát hiện ra tấm ảnh được nhét ở dưới khe cửa. Ông Đồng liền khẳng định cho rằng đó chính xác là đám người của Kiên. Nên ông vội vã gạt then cài cửa xuống rồi mau chón kéo cánh cửa xô lệch qua một bên.

Mở cửa ra, ông Đồng liền nhìn thấy dáng người của Kiên và của Kiều Như đang xuất hiện ở phía sau cánh cửa. Hai người tóc tai bù xù như vừa gặp phải thứ gì đó, lại còn thở dốc hốt hoảng.

Ông Đồng vừa nhìn liền đoán được ra ngay phần nào câu chuyện. Ông dáo dác nhìn một chặp quang cảnh bên ngoài rồi lập tức hối thúc hai người:

- Hai người vào nhà nhanh đi!

Kiên gật đầu, liền kéo cánh tay Kiều Như đi theo mình. Khi hai người vừa bước vào nhà xong là ông Đồng cũng đóng sập cửa lại.

Lúc này, ở bên ngoài sân, chợt xuất hiện một cái bóng người lòng khòng đang đi dần đến cái cửa.

Ông Đồng không hề để ý, là tự lúc nào, tấm ảnh được Kiên nhét qua khe cửa để dưới đất đang bị từ từ rút lại qua khe cửa và lôi ra bên ngoài biến mất.

...

Ông Đồng chờ cho hai người ngồi xuống thở đều cho thật đã rồi mới hỏi:

- Hai người có phải vừa gặp trùng rồi có đúng không? Rồi đồng chí còn lại đâu, đừng nói với tôi là đồng chí ấy bị trùng bắt mất rồi đấy nhé!

Kiên vừa thở vừa xua tay nói:

- Cậu ấy không sao! Cậu ấy đang canh gác ở trạm xá xã, hai người bọn tôi về đây để nghỉ ngơi một lát thôi. Nhưng mà...

Kiên nói được nửa chừng thì hết hơi, nuốt nước bọt không nói được tiếp nữa. Ông Đồng liền phân tích ngay:

- Nhưng mà nửa đường hai người đi về thì gặp trùng đúng không? Rồi lại còn giúp nó nữa chứ gì?

Kiều Như bình tĩnh, hồi sức lại được trước liền đáp lời ông Đồng, cô nói:

- Đúng vậy, chúng tôi gặp phải ma thật. Nó vờ làm một bà cụ bị ngã ở bờ ao, khi anh Kiên đỡ bà ta dậy thì...

Ông Đồng thở dài gào lớn:

- Đấy, tôi biết ngay là kiểu gì cũng có chuyện mà. Thôi đêm nay hai người ở lại đây đi, đừng có đi đâu cả. Tối nay kiểu gì con trùng nó cũng gọi cửa, rồi lúc ấy nó giả giọng là đồng chí kia thì cũng không được mở cửa đâu đấy!

Ông Đồng nói xong, xoay người, định nhặt tấm ảnh ở dưới đất lên thì không thấy tấm ảnh đâu. Ông bèn quay lại hỏi hai người Kiên, Kiều Như:

- Tấm ảnh của tôi đâu rồi?

Kiên ngơ ngác nhìn quanh rồi nói:

- Nó không ở dưới khe cửa sao?

Ông Đồng lắc đầu với vẻ hơi hốt hoảng nói:

- Dĩ nhiên là không có, không có lẽ...

Ông Đồng hơi run người, nhưng liền khẳng định lại ngay sau đó:

- Thôi chết rồi, là con trùng nó lấy mất tấm ảnh chứ không sai. Giờ thì nó đã mò theo về tới tận đây, đêm nay thì cái nhà này khó mà yên ổn được với nó!

Cộc cộc!

Ông Đồng vừa nói dứt lời xong, thì bên ngoài liền có tiếng gõ cửa vang dội. Ông Đồng run bắn mình không dám động đậy.

Kiên vội gọi với vọng ra ngoài:

- Ai vậy?

Bên ngoài liền lập tức có tiếng đáp lại:

- Em là Quân, dân quân tự vệ của thôn, em nghe chú Đồng báo có các anh trên huyện xuống điều tra nên nửa đêm mang ít đồ qua tính ăn chung với anh chị cho vui.

Kiên chợt trừng mắt quay qua nhìn ông Đồng nói:

- Sao tôi bảo là ông phải giữ kín bí mật chuyện bọn tôi đi nằm vùng cơ mà!

Ông Đồng gãi đầu gãi tai nói:

- Thì thằng Quân nó là dân quân tự vệ của thôn, nó biết thì càng tốt để hỗ trợ chứ sao, tôi cũng vừa mới gọi điện báo cho nó biết xong thôi. Nếu đã có tiếng nó trả lời như thế, thì chắc là không phải trùng đâu. Để tôi ra mở cửa cho nó...

Ồng Đồng mở cửa ra, tính mở cửa cho Quân đi vào thì thật không ngờ. Nào đâu cái người mà vừa đứng đằng sau cánh cửa chẳng phải Quân nào cả, mà lại chính là cái bà già khi nãy Kiên và Kiều Như cứu giúp.

Ông Đồng trợn mắt, chưa kịp nói câu gì thì sắc mặt đã chuyển sang tái mét rồi gục xuống đất.

Trong đêm có tiếng thét đầy kinh hãi vang lên, cả nhà ông Đồng đều bị đánh thức dậy. Tiếng thét vừa rồi là của Kiều Như vì cô quá sợ hãi khi nhìn thấy cái bản mặt của bóng ma kia khi xuất hiện.

Kiên cố kìm nén sự sợ hãi, anh nhanh trí kéo cả thân người ông Đồng vào trong rồi đóng sầm cái cửa nhà lại.

Nét mặt ông Đồng thất thần như người mất hồn, không hề nói câu nào. Ông ta tuy vẫn thở nhưng lại có sắc mặt tái nhợt như người đã chết vậy.

Một vài phút sau, hơi thở của ông Đồng cứ lịm dần, lịm dần rồi chuyển sang thoi thóp. Cho đến khi trong cổ họng ông khục khặc vài tiếng rồi tắt thở hẳn.

Con bé Liễu nhìn thấy cảnh bố nó chết thì liền không nhịn được mà gào lên:

- Bố ơi!

Rồi nó lao tới choàng ôm vào thân người ông Đồng, lay lay cái xác chết của ông mà gọi ông liên tục. Bà Chì thì cũng ngã lăn ngã lộn ra ngoài đất, gào khóc như điên như dại.

Mắt Kiên cứ nhòe đi, cứ mờ dần vì chính anh cũng đang khóc.

Ông Đồng đã chết chỉ vì lỗi lầm của anh với Kiều Như, giá như hai người bọn họ thực sự tin lời ông Đồng là thật, thì có lẽ ông ta cũng không bị thứ trùng kia giả giọng thành Quân mà bắt mất hồn.

...

Sáng hôm sau, cái tin ông Đồng bị trùng bắt đã lan ra cả Vũ Thôn. Người dân ở đây sớm cũng chẳng lạ gì với việc này vì xưa nay ở làng cái trường hợp người bất cẩn bị thứ trùng bắt rồi mất mạng cũng đâu có hiếm.

Hỗ trợ đám tang ma chay cho ông Đồng đến chiều, là Kiên cùng với Kiều Như cũng ra ngay trạm xá xã để gặp Dũng.

Dũng đã ngủ gục ở bên cạnh cô gái bị bỏng kia, cô ta vẫn còn sống nhưng hơi thở rất yếu. Chờ cho khi hai người Kiên và Kiều Như đến thì xe cứu thương từ trên huyện cử xuống cũng tới nơi.

Cô gái được Kiên xốc nách đưa lên xe cứu thương, rồi gọi Dũng tỉnh dậy hỏi chuyện:

- Đêm qua cậu có thấy gì kỳ lạ không?

Dũng vừa mới tỉnh lại vừa ngơ ngác vừa ngáp nói:

- Không có gì kỳ lạ cả, mà sao hôm qua hai người không ra đổi ca cho tôi thế. Làm tôi thức cả đêm đến sáng mới dám chợp mắt một tí...

Kiên thở dài đáp lời:

- Ông Đồng trưởng thôn chết rồi Dũng ạ.

Dũng đang mơ ngủ thì như bị dội một gáo nước lạnh bừng tỉnh trở lại:

- Anh nói cái gì? Ông Đồng chết rồi?

Dũng dụi mắt như không tin vào mắt mình, còn Kiều Như đứng bên cạnh Kiên thì cũng khẳng định nói:

- Đúng, ông ta chết rồi. Mà còn chết vì chính thứ mà chúng ta không tin... trùng!

Dũng cười không cho là thật nói:

- Hai người lại đùa tôi rồi, cái việc cợt nhả ấy của lão Đồng ấy mà cũng lừa được tôi sao? Đúng là khéo vẽ chuyện...

Kiên khẳng định nói:

- Chúng tôi nói thật đấy, làng này quả thật là có thứ trùng ấy. Đêm qua chính tôi và Kiều Như còn tận mắt gặp nó, hậu quả là chúng tôi đã làm liên lụy khiến ông Đồng phải chết.

Dũng như lặng người đi, anh còn cho rằng hai người này đùa cợt với mình hơi quá đà. Nhưng nhìn nét mặt nghiêm trọng của Kiều Như cùng với Kiên thì Dũng ngay sau đó cũng phải tin là thật.

Kiên lại hỏi:

- Hôm qua trong lúc cậu canh chừng cô gái, có biết được thêm thông tin gì không?

Dũng trả lời:

- Có một thông tin hết sức quan trọng đã được lộ ra. Cô ấy nói, kẻ sát nhân ấy không phải là người Dương Thôn, mà lại chính là người của Vũ Thôn!

- Người của Vũ Thôn sao?

Kiên hơi trầm ngâm suy nghĩ, rồi anh hơi giật mình nghĩ đến một vấn đề, anh phân tích:

- Nếu hung thủ là người của Vũ Thôn thì vấn đề có lẽ dễ giải quyết hơn rồi. Chính vì hắn là người của Vũ Thôn nên xưa nay thường dựa hơi vào cái tích chuyện trùng này để tạo vỏ bọc cho mình. Vì vậy cho dù xảy ra bao nhiêu vụ thảm án, hắn vẫn không bị phát hiện. Hơn nữa hắn lại còn chọn những nạn nhân là người Dương Thôn để đánh lạc hướng điều tra.

Kiều Như chợt nói:

- Nếu như thực sự hắn là người của Vũ Thôn thì thật dễ dàng giải quyết, bởi vì người của Vũ Thôn đều đi ngủ rất sớm, không có ai ra ngoài vào ban đêm cả. Chúng ta chỉ cần chia ra vị trí ba phía cổng ra của làng, núp sâu canh gác truy tìm. Chỉ cần thấy người nào của Vũ Thôn mà di chuyển trong đêm nay đi về hướng Dương Thôn, thì nhất định sẽ là hắn!

Kiên gật đầu đồng tình, nhưng lại tỏ vẻ khó xử nói:

- Vấn đề lớn nhất của chúng ta ở đây, không phải là có thể tìm được hắn hay không. Mà chính là về việc thứ ma trùng kia!

Dũng chưa gặp trùng bao giờ, cũng chưa từng sợ ma. Qua lời kể của Kiên và của Kiều Như, Dũng không mường tượng được sự khủng khiếp của trùng nên vẫn nói chắc nịch:

- Trùng chiếc thì sợ cái gì, cứ nghe theo lời ông Đồng trước đây, ba chúng ta mỗi người phục ở một góc, không được phát ra tiếng động, cũng không được chú ý đến bất cứ ai bị nạn mà lao ra cứu, chỉ cần phát hiện ra có người bất thường di chuyển ra khỏi Vũ Thôn đi về phía Dương Thôn, là lập tức nhắn tin để đánh động hai người còn lại cùng xuất phát. Nếu tuân thủ chắc chắn những điều ấy, thì trùng cũng không xuất hiện đâu!

Kiều Như cũng đồng ý với suy đoán của Dũng, cô nói:

- Rất có thể là vì tối qua chũng ta đã vô tình nói chuyện trong địa phận Vũ Thôn nên mới dẫn dụ con trùng đó ra, đêm nay chỉ cần chúng ta cẩn trọng hơn thì chắc là sẽ không xảy ra vấn đề gì đâu!

Kiên thở dài, anh rất lo lắng mọi việc sẽ xảy ra theo chiều hướng xấu đi như đêm qua. Nhưng thời hạn báo cáo với cấp trên đã sắp tới, hơn nữa hung thủ sát nhân hàng loạt đêm nay lại hành động. Nếu ba người bọn họ không ra tay lúc này, sẽ lại có thêm một mạng người nữa phải chết theo cách thức thiêu rụi tàn độc của hung thủ.

Cuối cùng anh gật đầu đồng ý với phương án của hai người Dũng và Kiều Nhi đưa ra, anh nói:

- Được rồi, hành động trước hết thống nhất như vậy! Tối nay ba chúng ta phải phục ở ba hướng cổng làng, mỗi người ở một cổng. Thống nhất là khi ẩn nấp không được phát ra tiếng động, mà chỉ cẩn trọng quan sát. Đặc biệt là thấy người bị nạn thì tuyệt đối không được mủi lòng cứu giúp nghe chưa.

Hai người kia tán thánh với ý kiến của Kiên.

Tối hôm đó, ba người dựa theo kế hoạch mà ẩn núp sát vào những bụi cây ở cổng làng.

Kiều Như được phân công trực núp ở cổng phía Tây, Dũng ở cổng phía Nam, còn Kiên thì canh chừng ở cổng phía Bắc.

Đến khi ánh nắng chiều tắt rụi, là ba người bắt đầu cảnh giác chui vào trong bụi cây nấp sát khẽ khàng thở cố gắng không hề phát ra bất cứ một tiếng động nào.

Khi trời tối, những hộ trong thôn đồng loạt chạy gấp rút chui vào trong nhà đóng cổng cài then rất kĩ càng.

Thời gian lặng lẽ trôi đi, từng tích tắc đồng hồ lướt qua mà từng giọt mồ hôi cứ thấm đẫm ướt vai Kiên.

Anh hy vong là suy đoán của mình lần này sẽ đúng giống như lần trước, kẻ sát nhân sẽ lộ diện ra khỏi bóng tối và anh có thể chấm dứt được chuỗi hành động tội ác của gã ta.

Đúng bảy giờ tối, một cái bóng đen lấp ló ở đầu con đường mòn của thôn. Kiên khẩn trương, nín thở cố gắng cho không gian lặng yên như tờ. Giường như trong không khí lúc này chỉ có thể nghe thấy tiếng kêu ve vãn của mấy con muỗi chết tiệt mà thôi.

Từ trên trán Kiên, những giọt mồ hôi dần đổ xuống dày đặc và ngày càng làm lưng áo anh ướt đẫm. Kiên khẽ khàng rón rén rờ tay vào cái khẩu súng lục ở bên vỏ bao súng đeo bên hông. Rồi lặng lẽ chờ đợi cái bóng đen dần tiến tới.

Ở cuối con đường mòn, một cái bóng đen người đàn ông cứ bước dần những bước chân hết sức đều đặn mà không hề phát hiện ra dường như có người nào đó đang rình mò mình.

Người đàn ông cứ thế lướt qua chỗ Kiên ẩn nấp, trong cái bóng đêm nhá nhem tối khiến Kiên chẳng thể nhìn rõ mặt mũi của gã ta.

Chờ cho gã ta đi xa một đoạn, Kiên bắt đầu rón rén bám theo gã ta sát nút không rời.

Cái bóng đen người đàn ông cứ bước đi chậm rãi, dáng đi khoan thãi với vận tốc nhịp nhàng không đổi như một cái máy. Kiên cũng phải giữ cho vận tốc bám đuổi của mình phù hợp nhịp nhàng để đuổi theo gã ta cho làm sao vừa không bị phát hiện, vừa vẫn có thể bám đuôi gã không rời tầm mắt.

Đang trong lúc cố gắng gấp rút chú ý hung thủ như thế, Kiên liền vội lui giật lại một góc nhà ngay sát mép đường mòn của thôn để ẩn nấp. Điện thoại trong người anh rung lên báo hiệu có tin nhắn vừa gửi tới. Kiên hơi cảm thấy ngạc nhiên, nhưng cũng vội rút điện thoại ra đọc lấy dòng tin nhắn trong điện thoại.

Đó là tin nhắn của Kiều Như, cô ấy nói:

- Tại cổng phía Tây, phát hiện nghi phạm tiến về Dương Thôn!

Kiên giật bắn mình kinh sợ. Vì Kiều Như nói là cô đã phát hiện ra có nghi phạm xuất hiện, vậy cái người mà từ nãy đến giờ mà Kiên bám theo là ai? Gã ta là người nào mà lại xuất hiện đi lại trong đêm trên căn đường mòn của thôn nghênh ngang đến như vậy?

Kiên cẩn trọng cất ngược cái điện thoại trở vô túi quần, rồi tiếp tục ló mặt ra nhìn về phía con đường mòn đến cổng Bắc đi ra khỏi làng.

Tại con đường mòn ấy, người đàn ông đó vẫn xuất hiện, vẫn đi với tốc độ đều đặn đi ra khỏi làng. Kiên định tiếp tục bám theo để chắc chắn xem liệu có phải gã ta cũng có ý định đi về Dương Thôn hay không. Nếu như gã quả thật có ý định như vậy, thì rất có thể trong vụ án này, sẽ là nhiều gã hung thủ, là một nhóm tội phạm chứ không phải là một kẻ riêng biệt. Nếu sự việc là như vậy thì nó sẽ trở thành một vụ án lớn hơn mà ba người không thể nào phụ trách nổi. Nếu một người thì có thể dùng sức ba người để bắt gã về quy án. Nhưng nếu là một nhóm người thì cần phải có thêm người hỗ trợ, nếu không chỉ cần sơ xuất một chút là nhóm đối tượng sẽ có kẻ chạy thoát.

Kiên vừa cẩn trọng bám theo người đàn ông, vừa thi thoảng để ý động tĩnh điện thoại xem có còn rung báo tin nhắn nữa hay không, bởi nếu lại tiếp tục có tin nhắn thì hẳn là bên cổng phía Nam của Dũng cũng có phát hiện về nghi phạm.

Nhưng một đoạn thời gian lâu nữa mà vẫn không có tin nhắn báo về, Kiên liền chắc mẩm là cổng phía Nam của Dũng không xảy ra vấn đề.

Đang lúc anh xoay người chuẩn bị tiếp tục bám theo gã đàn ông kia, thì bất chợt cả thân người gã ta lại lừ lừ quay lại.

Kiên giật mình vội núp sát vào một bên bụi cây. Anh lại tiếp tục quan sát gã đàn ông kia, gã ta không tiếp tục đi về phía cổng Bắc của làng, mà đột nhiên lại quay đầu đi ngược lại. Kiên hơi hoảng sợ suy đoán, không lẽ gã ta đã phát hiện ra là có người bám theo?

Anh cố sức cẩn thận núp vào bụi cây quan sát tình hình. Lúc này, khuôn mặt gã đàn ông kia khi quay đầu dần dần lộ diện ra trước mắt Kiên. Kiên chăm chú quan sát lắm, cái dáng người đàn ông kia đi lại càng gần, lại càng gần chỗ anh hơn nữa.

Kiên nín thở cố gắng không phát ra tiếng động, rồi đến một khoảng cách nhất định. Cả khuôn mặt người đàn ông đó đều lộ rõ trong bóng đêm nhá nhem. Kiên há miệng muốn kêu lên thất thanh. Nhưng may sao anh lại cố kiềm chế được cảm xúc của mình.

Cái người đàn ông mà từ nãy giờ anh vẫn luôn bám theo, thật không ngờ rằng... đó lại chính là... ông Đồng!!!

...

Hai mắt Kiên mở to tròn, căng hết cả mắt muốn lồi đôi con ngươi. Cả cuống họng anh cứ như muốn tắt thở vậy.

Thân người ông Đồng đang đi thẳng qua chỗ anh, bất chợt tới gần chỗ bụi cây mà anh núp thì liền dừng lại một lúc lâu.

Kiên thất thần, không lẽ mình đã bị ông Đồng phát hiện, anh hoảng sợ tự hỏi mình như vậy. Nhưng may sao, sau đó thân người ông Đồng lại di chuyển tiếp tục nhịp nhàng và không dừng lại. Ông ta đi ngược lại hướng mà ông ta xuất hiện như một cỗ máy vô hồn.

Kiên hoảng hồn thở dốc ngáp lấy ngáp để cho qua những phút giây chí tử vừa rồi. Ông Đồng như một quy luật, cứ lượn đi lượn lại trên con đường mòn của thôn. Sau cùng Kiên mới suy đoán được, là ông Đồng chết đã hóa thành trùng lang thang ở trong làng, chỉ chờ có người sơ hở là bắt mất hồn.

Kiên lại nhắn tin cho Kiều Như, hỏi xem nghi phạm mà cô nhắc đến liệu đã đi ra ngoài Vũ Thôn hay chưa. Nếu như nghi phạm chưa ra khỏi, thì đó rất có thể là một con ma trùng khác.

Nhưng Kiều Như nhanh chóng nhắn tin đáp lại, cô khẳng định chắc chắn đó là hung thủ. Vì cô bây giờ đã tận mắt nhìn thấy hắn ta lên chiếc xe tải nấp trong một bãi đậu hoang vắng gần bờ sông. Hơn nữa, trong cái thùng xe ấy cô còn có thể nhìn thấy nạn nhân tiếp theo. Cô đã thông báo việc này cho Dũng biết.

Kiên thở phào nhẹ nhõ, anh vẫn luôn lo lắng đến sự an nguy của Kiều Như. Lỡ cô bám theo nhầm phải một con ma trùng thì mọi chuyện sẽ trở nên rắc rối. Vì trùng là ma cho nên cô có võ vẽ giỏi đến đâu cũng thành vô dụng. Còn kẻ sát nhân lại là người nên mọi nghiệp vụ công an đều có thể phát huy tối đa đối với hắn.

Chờ thêm một

4 0
やまざき てがみ UwU | Chat Online Report
dài quá ko tg đọc hết
T^T
1 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:03:10
Chat Online
CHÔN XÁC HỒI SINH QUỶ

Hàng trăm năm trước, ở bên xứ tàu có thịnh hai môn phái lớn mạnh về thuật bỏ bùa là phái Lỗ Ban và phái Mao Sơn. Người xưa thì thường nghi kị hai phái này và xếp họ vào trong những loại môn phái tà ma ngoại đạo. Và hiếm khi những người thuộc môn phái này lộ diện ra cõi đời. Thậm chí bẵng đi một thời gian, người ta còn cho rằng hai phái này đã tuyệt tích, chỉ còn là hư danh. Và rằng hai phái kiệt mạch đệ tử, nên đã sớm bị thất truyền.

***

chon-xac-hoi-sinh-quy

Dẫu vậy, thi thoảng vẫn có tích truyện khác kể lại rằng, đệ tử của hai phái này lẩn khuất trong đời, giấu đi danh tính thực mà thi hành công việc trừ tà. Số đệ tử hai phái cứ ngày một xuất hiện hiếm hoi, sau cùng đến thời Thanh mạt đã không còn rõ nữa.

Phái Lỗ Ban lưu truyền từ Lỗ Ban Tiên Sư, người nước Lỗ thời Xuân Thu. Lỗ Ban giỏi về nghề mộc và chế tạo, sau này khi ông đắc đạo còn truyền lại cho đệ tử những loại bùa phép để trừ tà khắc lên đồ mộc. Phái ấy về sau phát triển càng thịnh, rồi phân ra thành rất nhiều chi nhánh, nhưng tựu chung vẫn gọi là phái Lỗ Ban.

Phái Mao Sơn thì khác biệt, phái này do ông Đào Hoằng Cảnh, sáng lập ra tại vùng Mao Sơn. Phái này cũng tập trung vào bùa chú, nhưng lại thiên về việc dẫn thi hồi hương, hay còn có thể hiểu theo một cách khác, là phái Mao Sơn thịnh một việc là biến người chết thành cương thi rồi dán bùa chú của mình, cho nó tự đi về quê hương để chôn cất. Thời nhà Thanh, phái này cũng rất thịnh với việc vận chuyển xác, bởi theo cách như vậy vẫn rất thuận lợi.

Thế nhưng suy cho cùng, cả hai phái này về đến thời hiện đại, đã dần vắng bóng và không còn rõ lai lịch. Những lời đồn đại vẫn cứ thế tiếp diễn, những cuộc truy tìm những truyền nhân thực sự của hai môn phái này nổ ra trên khắp các quốc gia châu Á. Họ tìm kiếm những truyền nhân của hai phái này, đều có những mục đích riêng của mình. Một là để trấn yểm ma quỷ, khiến cho dòng họ hưng vượng. Hai là muốn mượn tay những người như thế để triệt hạ kẻ đối địch.

Những truyền nhân chân chính của hai phái thì không bao giờ dính vào ác nghiệp. Suy cho cùng, nếu có chăng thì cũng chỉ là những con cá lọt lưới, mười kẻ biết nghề thì cũng chỉ có một hai kẻ là vì sức cám dỗ của đồng tiền mà bán rẻ tư cách. Ấy thế nhưng những truyền nhân thật sự của hai phái cho dù có là thiện hay ác thì cũng rất khó tìm. Mà lại nổi lên những kẻ bịp bợm lừa lọc, học được chút da lông của hai phái, vỗ ngực tự xưng mình là truyền nhân chân chính để đi lường gạt, kiếm trác bỏ túi, tư lợi cá nhân.

Ở vùng Tà Xùa huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La, có một tích truyện kể lại rằng. Hằng trăm năm trước có ông thầy pháp người tàu qua định cư ở núi này, tự xưng là có thuật pháp cao minh của phái Mao Sơn, cả của Lỗ Ban lưỡng đạo, có thể hồi thi sống lại rồi đem đi chôn cất ở nơi phù hợp với nghiệp căn của người. Không chỉ giỏi về pháp thuật bỏ bùa, phép hồi thi, mà ông ta còn rất giỏi phong thủy.

Dưới vực Tà Xùa có một cây liễu nhỏ, người ta kể rằng sau khi ông thầy pháp đó chết đi, đã được chôn cất tại gốc cây liễu ấy. Sau cùng thì vì tử khí cái xác của ông ta quá nặng, mà hóa thành cương thi. Rồi xác của ông ta tự động di chuyển được mà chạy về hướng bắc. Người ta cho rằng ông ta khi chết đã tự hạ bùa lên thân mình, cho cái xác sau khi chết có thể tự động hồi hương. Còn cây Liễu nhỏ nơi trên mộ phần của ông ta, cũng được cho rằng đã hóa thành yêu tinh. Rồi sau này cây liễu ấy cũng biến mất, có thể là vì nó đã hóa thành tinh rồi tự bỏ đi, hay có thể là vì bị người ta chặt bỏ.

Kể đến đây, bà cụ chép giọng ngừng bặt. Đứa cháu gái nhỏ vẫn đang chăm chú lắng nghe, mà nuốt từng miếng nước bọt hồi hộp. Nó chờ mãi, chờ mãi mà chẳng thấy bà cụ trả lời. Nó đành cất tiếng hỏi:

- Câu chuyện có vậy thôi hả bà? Rồi cái cây liễu ấy đi đâu, nó còn sống hay đã chết? Cái vực Tà Xùa gần nhà mình có cái cây ấy thật ư?

Bà cụ gật đầu, xoa đầu đứa cháu gái nhỏ rồi âu yếm nói:

- Hồi bà bằng tuổi cháu, cũng có một lần xuống vực Tà Xùa. Và cũng được chiêm ngưỡng qua cái cây ấy, nhưng hồi ấy bà cũng chỉ dám đứng ở trên vách đá, cách xa lắm để nhìn xuống, chứ không dám lại gần. Lâu dần, sau này có một vài lần bà quay lại nơi đó, nhưng cái cây liễu ấy cũng đã biến mất mất rồi cháu à.

Đứa cháu gái chép miệng tỏ vẻ tiếc nuối, nó quay lưng đứng dậy. Rồi đi về phía gian phòng cuối nhà, chui tọt vào bên trong, mà chẳng thấy quay ra nữa.

Bà cụ tươi cười, tay bà liên tục nhanh thoăn thoắt. Bà đút củi vào mồi lửa dưới đáy nồi nhôm đen kịt, để lửa có đủ củi mà cháy thật bén.

Sau lưng bà cụ, có một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, đang xoa tay, mắt nhìn vào mồi lửa cháy bén mà nghĩ ngợi hồi lâu. Người đàn ông ấy là ông Khanh con trai cả của bà cụ.

Ông Khanh có vẻ rất có hứng thú với câu chuyện mà bà cụ vừa kể. Ông suy đi tính lại, lòng tham nổi lên vì có ý niệm muốn lấy được gỗ của cây liễu cổ. Ông cố gằn lòng lắm, nhưng vẫn không nhịn được mà bấm bụng liều hỏi bà cụ:

- Vậy cái chuyện cây liễu ở dưới vực Tà Xùa là có thật hả mẹ?

Bà cụ ngừng dụi củi, chợt quay sang nhìn ông Khánh rồi thản nhiên nói:

- Thật chứ sao không? Ngày xưa chính bố mày còn ngồi ở cái gốc cây ấy, cái cây liễu ấy nhiều tuổi rồi nên to lắm. Liễu rủ xuống xanh um, hiếm có được cây liễu nào mà sống lâu được như nó...

Ông Khanh run run giọng, nói ngắt quãng:

- Lớn cỡ nào hả mẹ... có cỡ khoảng hai, ba người ôm không?

Bà cụ xua tay nói với vẻ rất nghiêm trọng:

- Ba người ôm là thế nào, cỡ nó thì phải bảy tám người ôm cũng chẳng xuể. To như cây đa dưới quê ấy!

Ông Khanh nuốt nước bọt hỏi:

- Liễu mà cũng có thể to như thế hả mẹ?

Bà cụ gật đầu chắc nịch nói:

- Chứ sao không, nó đã là cây liễu thành tinh rồi! Lớn như thế chứ lớn nữa có ăn nhằm gì. Nó sống dai là nhờ có cái xác của ông thầy phép chôn ở đấy, nên được hưởng ké cái phúc âm. Chứ bằng không thì chẳng bị sét đánh mấy lần chết ngẻo rồi...

Ông Khanh nghĩ ngợi gì một chốc, đôi mắt chợt như lóe sáng, rồi vội quay đầu sang nói với bà cụ:

- Đêm nay con không ăn cơm ở nhà, con qua nhà chú út. Mẹ đừng nấu cơm con...

Nói xong, ông Khanh vội vàng đứng phắt dậy quay đầu đi thẳng.

Bà cụ toan gật đầu, nhưng chợt bà lại nghĩ ngợi đến điều gì đó, thì liền hoảng sợ, kêu toáng lên gọi ông Khanh:
- Này, chúng mày chớ có tơ tưởng gì đến cái cây liễu ấy. Mày mà động vào không què cụt chân tay, thì cũng méo mồm đấy con ạ, cái cây ấy... nó có ma...

Nhưng tiếng bà cụ vang đều, mà chẳng có âm thanh nào đáp lại. Hẳn là ông Khanh đi vội quá nên không kịp nghe thấy tiếng bà cụ. Bà cụ thở dài, chân tay bà yếu chẳng thể đi lại nhiều, chỉ mong ông Khanh đừng có cái ý định dại dột ấy, thì may sao mọi chuyện còn êm xuôi, chứ bằng không thì...

Bà nghĩ, rủi chăng mà ông Khanh thật có cái chủ ý ấy, thì không chỉ ông tận số kiếp, mà còn liên lụy đến vận số của cả nhà bà cụ, ngay cả đứa cháu gái đang ngủ trong buồng kia cũng không thoát được cái kiếp nạn ấy, đều phải chết bởi lời nguyền bùa ngải của ông thầy pháp người tàu.

...

Ông Dương lụi cụi đóng cây đinh sắt cột thật chắc cái chân giường đang bị lung lay, trực sắp kéo cả cái giường đổ sập xuống. Chợt ông nghe thấy có tiếng âm thanh vang lên ồm ồm từ ngoài sân vọng vào:

- Dương, có nhà không, anh Khanh đây!

Ông Dương ngoái đầu nhìn ra ngoài, chợt ném cái búa xuống nền đất, rồi phủi tay đứng thẳng dậy, đi ra chỗ bàn uống nước, xoa tay vô cái giẻ lau qua một lượt. Lại lấy một ấm trà với cái phích nước nóng ra, pha một ấm trà, vừa làm những thao tác ấy, ông Dương vừa nói:

- Dạ có ạ, anh vào đi, em cũng vừa mới về nhà xong thôi!

Ông Dương vừa nói xong, thì cũng đã thấy dáng ông Khanh lấp ló ngoài cửa bước vào. Ông Khanh hai tay đút vô túi quần cho ấm bước đi khoan thai.

Trời mùa đông vùng Tây Bắc sương lạnh, bụi mù tung khắp nơi, cái lạnh rét buốt khiến người ta chỉ muốn ngồi bên bếp lửa ấm. Mà ông Khanh lại lặn lội đi ra giữa trời rét này, chắc là có việc gì gấp lắm. Thường thì người Tây Bắc mùa đông có rất ít vụ, đa phần đều đã tích trữ lương thực từ mùa trước... Vậy thì việc ông Khanh ra khỏi nhà vào cái trời đông giá lạnh này quả thật là một sự lạ.

Ông Khanh ngồi xuống chiếc ghế băng, nhanh tay cầm lên chén chè nóng ông Dương vừa mới pha. Cầm chén chè lên vừa xoa tay vừa xoa chén rồi nói:

- Tôi có việc này quan trọng lắm, phải cần bàn bạc với chú...

Ông Dương nhấp một ngụm trà đặc, rồi mới híp mắt từ tốn hỏi:

- Chuyện gì thế hả anh?

Ông Khanh đặt chén chè lại bàn, rồi mới tặc lưỡi nói:

- Tôi nghe bà cụ nói, dưới vực Tà Xùa có cây liễu cổ lắm!

Ông Dương đang thong dong, liền trợn mắt, thả giọng hỏi dồn:

- Bà cụ nói có cây liễu cổ lắm ở dưới vực Tà Xùa hả anh?

Ông Khanh gật đầu chắc nịch nói:

- Bà nói là có, mà hồi trẻ bà cũng trông thấy mấy lần. Mà bà nói là lần cuối bà xuống vực Tà Xùa thì không còn thấy cái cây ấy nữa, còn nói khéo nó thành tinh mà đã bỏ đi mất rồi!

Ông Dương vỗ đùi nói:

- Vớ vẩn, thành tinh là thành tinh thế nào, cái thứ liễu cổ ấy quý hiếm lắm. Nay anh em mình cứ xuống vực Tà Xùa thử một lần? Cho dù người ta có chặt, thì cũng chỉ chặt phần thân, chứ còn phần gốc thì hãn còn ở đấy, chỉ nhiêu ấy thôi là người xuôi đã trả ối tiền rồi!

Ông Khanh gật đầu cười hưởng ứng nói:

- Chính thế, nên hôm nay tôi mới muốn qua đây bàn bạc với chú ngay. Mình phải nhanh nhanh chóng chóng xuống ấy mà đào nốt cái gốc về, kẻo để lâu nữa nhỡ người ta thấy thì lại đẵn mất. Anh em ta mà có được thứ gỗ cổ ấy, thì có mà dư sức mua giống cả mấy vụ mà chẳng lo gì cả, rồi sắm cả xe, xây cả nhà chứ chẳng chơi!

Ông Dương vội vã đứng phắt dậy, hưng phấn nói to:

- Đi, anh em mình đi luôn, chứ để chờ thêm nữa là em chịu không nổi. Nhỡ rủi mà có thằng nào nó trông thấy thì hỏng...

Ông Khanh cười khành khạch đáp:

- Ui trời, xem chú kìa. Nếu nó mà dễ đẵn thế, thì đã chẳng chờ hôm nay mới đến lượt anh em mình. Phải tính toán xem làm sao, có thể đào được cái gốc ấy lên, phải chuẩn bị dụng cụ đồ nghề thật chu đáo thì mới được!

Ông Dương gãi đầu, xoa tai nói:

- Đấy, nhiều lúc thích thú quá mà mất khôn, anh dạy phải. Thôi thì cứ để thư thư đã vậy...

Ông Khanh lại lắc đầu nói:

- Thư thư là thế nào, chậm, nhưng không phải là chậm như thế! Ngay đêm nay, tôi với chú đi đẵn cái gốc ấy về. Tôi đã tính toán đủ cả rồi, đồ nghề thế nào cũng đã có kế hoạch. Chỉ có điều, tuy tôi không mê tín cho lắm, nhưng vẫn thích chọn giờ đẹp. Giờ đẹp để đẵn cái cây ấy là khoảng hai giờ sáng, khi ấy phần âm tản bớt, không khí trong lành. Cái giống liễu thì lại lắm tà, phải chọn giờ ấy thì mới ổn...

Ông Dương gật đầu nói:

- Anh quyết thế nào cũng được, em chỉ cần tiền thôi. Phải mua được cái xe máy thì chở ngô nó mới tiện, mùa sau còn không bị tiểu thương ép giá, có gì thì mình còn chở thẳng được đến chợ huyện mà bán ngô chứ...

Ông Khanh gật gù đáp:

- Ừ, chú tính thế là phải. Nhưng thôi, không mơ mộng viển vông nữa, cứ phải có được gỗ trong tay thì mới coi là thành công. Trước chú cứ đi nấu cơm rượu đi, anh em mình ăn no say, rồi mới chuẩn bị đồ đạc dần dần. Quan trọng là kết quả, chứ còn khi chú có tiền, mơ thế nào mà chẳng được...

Ông Dương thích chí ưng ngay, xuống ngay dưới bếp hối vợ là bà Hồng, phải nhanh chóng chuẩn bị cơm rượu thết đãi anh trai, rồi sau đấy lên bàn chuyện với ông Khanh, mưu tính chạy vạy khắp nơi trong bản để mượn đồ nghề, chỉ nói thác là để sửa nhà.

Làm xong những việc ấy, thì trời cũng đã đổ đêm, hai người quần áo mặc bận đồ đông cho thật kín gió. Rồi mới men theo con đường mòn từ bản, chạy xuống dưới đường lớn quốc lộ 37. Dọc theo con đường nhựa ấy mà đi vào lối đường dẫn qua Tà Xùa.

Đi bộ cả đêm, hai người đã thấm mệt, cuối cùng thì khoảng mười giờ đêm hai người cũng đã có mặt ở trên đỉnh Tà Xùa. Việc còn lại là chỉ chờ cho đúng giờ cho hợp phong thủy, rồi mới thả thừng xuống tận dưới đáy, để mò tìm cái gốc liễu cổ như lời bà cụ kể.

Ông Khanh đem bao thuốc lá Vinataba chìa ra, mời ông Dương một điếu, nói:

- Đây, cứ làm mấy điếu thuốc lá mà giết thời gian đi. Bao thuốc lá này là anh để dành kĩ lắm, quý mới đem ra, chứ bình thường thì cũng chỉ dám hút Du lịch với lại Thăng long mà thôi. Kì này nếu mà quả như đẵn được cái thân gỗ quý ấy, thì thuốc lá Vina anh em mình có mà còn được hút cả thùng ấy chứ...

Ông Dương không khách khí, thò tay cầm ngay một điếu thuốc lá châm ngay, nhả khói trắng đều thật đã rồi mới nói:

- Công nhận, cái thuốc lá Vina này nó vừa thơm mà vừa êm, sướng thật...

Ông Khanh tặc lưỡi nói:

- Thuốc lá đắt tiền nó phải khác chứ lại, chẳng thế mà nó lại tự nhiên đắt gấp đôi, chú lại cứ đùa!

Hai người vui vẻ trò chuyện kéo dài suốt đêm. Cuối cùng, cái giờ khắc đã định trước mà ông Khanh nói cũng đã đến. Hai giờ sáng, hai người đã bắt đầu ngay vào công việc, bằng việc thả hai sợi dây thừng xuống vực, buộc chặt mỗi đầu dây vô cái xà lan ven quốc lộ, mỗi dây cách nhau chừng vài mét. Một người được chọn đi xuống trước để thăm dò, một người còn lại đứng ở đằng trên rọi đèn pin, đồng thời trông chừng cái dây thừng.

Ông Khanh đương nhiên là người đầu tiên đòi xuống trước, trước khi đi ông còn nói:

- Anh xuống trước xem có còn cái gốc cây ấy hay không, nếu như mà nó còn, thì anh sẽ rung dây thừng cho cái chuông buộc ở giữa đoạn dây kêu lên. Khi ấy thì chú chỉ cần tuột theo đường dây thừng mà xuống với anh. Trong thời gian chờ, thì cột chắc cái dây thừng mấy lần vào cho thật ổn, tính cả cái dây thừng dự bị nữa, nhỡ kẻo đứt thì còn có cái khác mà leo lên...

Ông Khanh nói xong, liền tụt xuống dây thừng, leo trèo trên vách đá, nhanh thoăn thoắt đã dần mất bóng trong màn đêm, xa đến độ đèn pin của ông Dương rọi theo mà cũng chẳng nhìn thấy được nữa.

Ông Dương nghe lời, chỉnh sửa mối dây thừng cho thật chắc chắn, rồi cứ ngồi vậy mà chờ ở trên. Trong lúc chờ đợi, ông Dương đem cái đài radio ra mở để dò tần số đài.

Chẳng là ông Dương có cái thói quen rằng là đi đâu cũng mang theo cái đài radio, mà lại còn thêm một cái tật nữa là hễ rảnh là đem đài ra dò sóng. Mặc dù giờ là hai giờ sáng, trời tối đen như mực. Chẳng có cái đài phát thanh nào lại phát vào giờ này cả, nhất là đài địa phương lại càng không.

Những tưởng cái thói quen chỉ là vô thức ấy, chỉ là một thứ để giết thời gian. Thế nhưng không ngờ ông Dương lại dò được thật. Trong cái tiếng xèo xèo của âm loa đài ngắt quãng, ông có thể nghe thấy lờ mờ một thứ âm thanh rên rỉ kêu gào nào đó từ loa đài phát ra, âm thanh không hề rõ ràng, mà ngừng từng nhịp theo một cách cực kỳ quái dị.

- Hay thật, giờ này mà đài vẫn còn phát cải lương...

Ông Dương thích chí reo lên, bàn tay ngắc nguẩy xòe múa, mắt ông lơ đãng mà quên béng mất sợi dây thừng, chỉ chăm chăm chú ý vào cái đài radio, quên luôn cả ông anh trai đang mò mẫm dưới đáy vực.

Ông Khanh thì khác, trong lúc người em trai đang hứng chí nghe đài ở trên, thì ở dưới này, ông đang phải vật lộn với mớ dây thừng, bị cheo leo ở giữa sườn núi. Cái dây thừng bị mắc vô vách đá ở tít tận lưng chừng núi, nếu ông Dương mà chú ý, thì hẳn là sẽ thấy cái chuông rung lên bần bật cầu cứu của ông Khanh, nhưng điều đơn giản ấy lại bị cái đài radio chết tiệt ngăn cách. Ông Khanh kêu khản cả giọng mà chẳng thấy một thứ âm thanh nào đáp lại. Bất lực, ông Khanh đành phải tự tìm cách cứu lấy mình.

Từ đây xuống tới đáy vực chỉ còn độ khoảng chục mét mà thôi. Nếu ông Khanh cẩn thận thì cho dù không cần dây thừng cột chặt vẫn có thể tự mình leo xuống được.

Rồi khi có thể xuống đến đáy vực, thì còn có một sợi dây thừng khác được thả xuống cách đó hàng vài mét để dự phòng. Ông Khanh có thể dựa theo sợi dây ấy mà đu lên.

Nghĩ đoạn, ông Khanh loay hoay tháo cái nút dây thừng ngay lập tức.

Mồ hôi ông chảy càng ngày càng đặc, nút dây thừng thì cứ cứng mãi mà không sao tháo ra nổi. Ông Khanh bấm bụng, nghiến răng, định bụng rút dao ra cắt phéng đi một cái là xong. Nhưng nếu thế thì đứng không vững, không kịp bám vào vách. Nên vẫn cần phải tính toán một cách cụ thể...

"Ông có cần giúp gì không?"

Bỗng sống lưng ông Khanh gai lại, một giọng nói phát ra từ dưới đáy vực. Ông Khanh giật nảy mình, mồ hôi lạnh toát ướt đẫm sống lưng...

Giờ đã là hai giờ sáng, tại cái nơi heo hút vắng vẻ này, bình thường ban ngày còn chẳng có người. Thế nhưng lúc này ở dưới đáy vực lại có giọng nói phát ra, ông Khanh không hoảng hốt sao được.

Bà cụ đã không ít lần kể, ở dưới vực Tà Xùa nhiều ma lắm, ma quỷ tụ tập thành bầy thành lũ, chúng chết do yêu tinh dẫn đường đưa lối, hoặc do tai nạn từ đường trên, đổ đèo mà chết hóa thành ma quỷ. Ông Khanh bình thường không có tin, nhưng cái âm thanh vừa rồi dọa cho ông sợ mất mật, trong đầu ông tự động vang lên câu hỏi, không lẽ là có ma thật?

Ông Khanh cố nén sợ hãi, đanh giọng quát lớn để át đi cái sợ:

- Ai đấy? Đứa nào đấy?

Dưới vực không có âm thanh đáp lại, chỉ có tiếng im lặng của núi rừng, tiếng côn trùng kêu và di chuyển lách tách qua những khóm lá, tạo nên những âm thanh sột soạt và bản hòa âm rợn người.

Ông Khanh quát đến mấy lượt mà đều không có âm thanh đáp lại, ông phải cố gằn lòng lắm mới dám tiếp tục nhìn chằm chằm vô cái dây. Nhưng ông chợt cứng họng, vì cái nút thắt cổ chai khó nhằn không ngờ đã được gỡ từ lúc nào. Qua cái nút thắt cổ chai ấy, thì những nút thắt còn lại đều dễ dàng an toàn tháo được.

Nghĩ đoạn có cảm giác hơi khó hiểu, nhưng ông Khanh vẫn dùng tay, nhanh thoăn thoắt gỡ mảnh dây thừng xuống. Rồi bắt tay bám vô vách đá, kiên nhẫn leo dần dần xuống vực.

Mặc dù có đôi chút cảm giác sợ hãi, nhưng giấc mộng giàu sang vẫn ảnh hưởng quá lớn, thôi thúc ông Khanh bất chấp tất cả mà xông về phía đáy vực Tà Xùa...

Chân ông Khanh đáp xuống tới mặt đất, đáy vực lổn nhổn nhấp nhô toàn là đá. Bàn chân ông va chạm vào lớp đá vụn, tạo ra tiếp xúc với mặt đá vang lên những thanh âm lộp rộp.

Một quang cảnh âm u tối đen như mực, xa xa là thứ ánh sáng le lói của nửa vầng trăng khuyết chiếu rọi. Trong thứ ánh sáng nhá nhem, từng bụi cây um tùm che khuất tầm nhìn. Ở trên miệng vực thì đã cách nơi đáy xa quá. Mặc dù ông Khanh đã dỏng tai cố lắng nghe thật kĩ, mà cũng chẳng thể nghe được tiếng động gì.

Đang cảm thấy có chút lạc lõng vì vừa mới đặt chân tới đây, thì ngay lập tức sống lưng ông lại gai lạnh. Dường như có một thứ gì đó vừa lướt vụt qua phía bên phải ông, như một bóng ma vậy.

Một giọng cười khúc khích, cũng không phải, lại giống như một thứ âm thanh của tiếng lá cây do gió thổi.

Ông Khanh cố hít sâu cho thật can đảm, rồi nhanh tay cầm lấy cái đèn pin rọi vô phía trước mặt, bắt đầu mò mẫm từng bước một. Thò con dao gạt phay đám lá cây bui che khuất tầm mắt. Chân ông bước đều, thi thoảng lại giẫm hụt đến rầm cái vào một cái hố ổ gà ổ voi sâu hoắm nào đó. Ông Khanh chao đảo, cố định thần lại cho thần vững rồi bắt đầu men theo cái lối đi thẳng tự định hình mà truy tìm cây liễu cổ.

Trên miệng vực Tà Xùa, ông Dương đang đắc đắc ý dò đài đi lại cho thật rõ cái âm thanh vừa mới bắt được trong radio, cho thật mượt mà sắc nét.

Nhưng càng dò ông càng cau mày, vì rõ ràng vừa rồi còn nghe thấy âm thanh ở đúng cái tần số ấy, mà giờ chỉnh đi chỉnh lại thì lại thất mất tiêu.

Nụ cười trên môi ông Dương tắt ngấm. Chợt ông nom tới hai sợi dây thừng buộc ở thanh xà lan ven đường thì liền hoảng hồn kêu lên:

- Trời ơi anh Khanh!

Hốt hoảng, ông vội vàng quăng cái đài cát xét qua một bên, rồi phi như bay chạy tới mép vực. Hai sợi dây thừng từ lúc nào đã bị đứt lìa, nhìn qua đèn pin rọi xuống thì phát hiện ra những đoạn thừng bị đứt đã lọt thỏm vào khe đá, mắc vào bụi cây mọc ở vách quấn chặt vào đó. Những cái nút quấn chặt ấy chỉ là tạm bợ, nếu ông Khanh mà không biết điều ấy, vẫn cứ leo lên sợi dây thừng. Thì chỉ cần leo được nửa chừng là chỗ đoạn dây mắc vào cành cây sẽ bị tuột ra, đến khi ấy ông Khanh không nghi ngờ gì sẽ bị ngã chết ngay.

Ông Dương lo quá, trong lòng cứ hy vọng là ông anh mình không tìm ra cây liễu kia nhanh đến như thế, rồi vô tình trèo lên sợi dây thừng. Ông Dương bèn cố sức dùng giọng gọi to mà vọng xuống tới vực sâu để cảnh cáo ông Khanh, nhưng vẫn không hề có âm thanh đáp lại.

Ông loay hoay không còn biết cách nào, đành quay đầu chạy như bay về bản, muốn nhờ người đến cứu giúp.

Dọc đường đi ông Dương loay hoay loạng choạng đâm vào bụi cây đến xây sẩm mặt mày đến mấy lần.

Trong miệng ông khục khặc thở dốc, mồ hôi ướt đẫm cả áo. Quần áo thì xộc xệch rách bươm, khi ông Dương vừa mới rời khỏi, thì từ cái đài cát xét rơi dưới đất vang lên một tràng âm thanh quái dị.

Tiếng radio xèo xèo dần có nhịp điệu và mơ hồ như một loại âm thanh cười khúc khích chói tai, vang rợn xuống tới tận vách đá, vọng tới tận dưới vực.

Ông Khanh đang gạt mớ cây cỏ chắn đường để mò mẫm bước, chợt cũng nghe thấy tiếng cười quái dị ấy. Tiếng radio phát xuống đến đây đã không còn quá rõ là tiếng cười, mà chỉ còn là âm thanh u u kì quái. Dẫu vậy chỉ với cái âm thanh ấy thôi, là cũng đã đủ là cho ông Khanh phải khụy gối, sởn ra gà. Trời đêm hoang vu lạnh lẽo, rừng cây ùm tùm bủa vây ở đây, cộng thêm loại âm thanh ấy nữa thì cho dù là người có gan dạ đến đâu cũng phải sợ són đái ra quần.

Ông Khanh định thần lại, ngưng tay gạt cành, cố gắng lắng nghe xem cái thứ âm thanh quái dị vừa mới phát ra là thứ gì. Nhưng nghe mãi mà ông chẳng thấy nó giống tiếng gì mà ông đã từng nghe từng biết cả. Rồi đột nhiên âm thanh chợt im bặt, ông Khanh dỏng tai lắng nghe thật kĩ nhưng cũng không nghe thấy gì nữa.

Ông thở dài, tiếp bước. Cánh tay ông gạt một mớ cây bụi um tùm, hở ra một mảnh đất rộng kéo dài ra tận đằng xa. Vừa mới gạt cái mớ cây bụi ấy ra, thì ngay lập tức ông đã giật mình kinh sợ ú ớ, vì cách ông chỉ độ chừng chục mét mà thôi, là một dáng người hết sức quen thuộc xuất hiện. Người đó chính là ông Dương, em trai ông...

- Dương, em...

Ông Khanh ú ớ không nói được tiếp nữa, vì rõ ràng là ông Dương ở trên miệng vực, mà như thế nào giờ lại xuất hiện ở đây. Ông Khanh xuống đây trước cả chục phút, dọc một đường đi ông chỉ có đi thẳng. Ông Khanh cho dù có vắt chân lên cổ mà chạy, rồi hì hục leo nhanh thoăn thoắt đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào có mặt ở đây vào lúc này.

Cái bóng người kia quay lưng về phía ông Khanh, tuy không nhìn rõ đó là ai. Nhưng nhìn về dáng người và bộ quần áo, thì ông Khanh nhận định ngay, đó chính xác chính là ông Dương rồi.

Mặc kệ ông Khanh ú ớ như thế nào, nhưng bóng người kia không hề quay đầu lại, cũng không hề đáp lại trả lời.

Ông Khanh thoáng định thần lại, gạt mấy giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, lấy hết can đảm bước về phía người kia. Cái đen pin của ông chiếu rọi, cố sức căng mắt ra mà nhìn cho thật kĩ. Càng đến gần thì ông càng khẳng định chắc chắn rằng cái dáng người kia không ai khác chính là ông Dương. Bởi ông Dương hồi nhỏ đi rừng có bị rắn độc cắn, phải chặt cụt mất một ngón tay trỏ ở bên phái. Mà cái người đứng trước mắt, ngoài bộ quần áo, chiều cao, mái tóc giống hệt, thì cái ngón tay trỏ cũng đã bị cụt không sai vào đâu được.

Ông Khanh chớp chớp mắt mấy lần, càng tiến đến gần, gần hơn nữa. Rồi chợt mắt ông hoa lên một chặp, ông cố nheo mắt lại, thì lại thấy hóa ra cái dáng người đứng yên khi nãy lại chỉ là một cái lùm cây.

Ông Khanh thở phào một trận, tự chửi rủa, thì ra là ông nhìn gà hóa quốc. Là cái bụi cây mà từ xa ông cứ ngỡ là ông Dương mới đúng. Nhưng cái hình ảnh bộ quần áo, mái tóc, ngón tay cụt tại sao ông lại có cảm giác rõ ràng và chân thật đến như thế?

Ông Khanh lắc đầu, rồi lại tiếp tục bước đi trên hành trình tìm kiếm cây liễu cổ. Dọc đường đi không ít lần ông bị giật mình vì những hình ảnh quái dị, bóng ông Dương, bà cụ, rồi đứa con gái của ông cứ lần lượt xuất hiện khiến ông nhiều phen hoảng hồn. Lòng dạ ông cứ mỗi chốc lại nóng như lửa, ruột gan cồn cào, bồn chồn không yên.

Ông Khanh cứ trong tình trạng phập phồng như thế mãi đến tận một giờ đồng hồ sau, thì cái khoảng đất thi thoảng xen kẽ cây bụi mới hết. Thay vào đó là việc trước mắt ông xuất hiện một mảnh đất rộng lớn kéo dài, mảnh đất này không hề có bất cứ thứ gì mọc lên, ngoại trừ một thân cây khổng lồ to lớn cỡ chục người ôm đang mọc sừng sững ở đấy. Cả bầu trời ở đây bị mây đen che phủ, gió không hề thổi qua đây. Cây cỏ không hề mọc. Thứ ánh sáng duy nhất phát ra từ chiếc đèn pin mà ông Khanh mang theo, chiếu rọi có thể nhìn thấy cả khu vực này.

Ông thoáng mừng rỡ, bước lại ngày càng gần về phía cây liễu, thì chợt ông có cảm giác khó thở như có cái dây thòng lọng luồn sâu vô cổ. Ông giật mình kinh hãi lùi lại thì cái cảm giác ấy lại biến mất. Ông sờ sờ lên cổ định thần lại, cái cảm giác dây thòng lọng thít cổ rõ thật là vẫn còn quanh quẩn đâu đấy.

Ông Khanh nheo mắt, nhìn về phía cây liễu, quan sát cái tán lá khổng lồ um tùm của nó. Liền nhận ra một sự thật không tưởng, cây liễu này không ngờ rằng lá của nó lại không có màu xanh, mà xen lẫn toàn một màu đen và một màu đỏ hết sức quái dị.

Lá cây đung đưa nặng chĩu, thi thoảng một vài cành liễu rủ xuống còn rung lên bần bật như là có người ngồi trên cành, khuất sau những tán lá đá nhún nhảy, khiến cho cành cây rung lên như có gió thổi mạnh.

Ông Dương gạt mồ hồi, sợ hãi cố nuốt ngược lại. Rồi tự lẩm bẩm:

- Được rồi, việc quan trọng là đã xác định được cây liễu này có thật rồi. Giờ phải quay lại gọi chú Dương xuống đây thôi...

Nghĩ đoạn, ông Khanh thoáng quay đầu, nhanh thoăn thoắt quay trở lại hướng vách đá, để leo lên trên ấy báo tin cho ông Dương.

...

Trong khoảng cả giờ đồng hồ mà ông Khanh loay hoay dưới vực khi ấy, thì ông Dương cũng đã kịp về bản, báo tin hết lượt cho người trong bản biết việc ông Khanh gặp nguy. Việc ấy đánh động hết cả dân bản đều thức dậy, ngay cả bà cụ mẹ ông Khanh cũng biết tin.

Bà cụ hì hụi theo đoàn người ngay trong đêm đi thẳng đến vực Tà Xùa để cứu con.

Đèn đuốc đốt sáng trưng khắp bản, đám chó sủa loạn râm ran. Trẻ con trong bản đang ngủ say đều thức dậy khóc ré lên vì thứ âm thanh quá ồn ào.

Đám thanh niên bản hò reo, người già trẻ con ở nhà, chỉ có đàn ông khỏe mạnh là được đi theo ông Dương để cứu người. Bà cụ mẹ ông Khanh mới đồng còn không được mọi người đồng ý cho đi, nhưng sau bà cứ nhất quyết đòi đi nên mọi người cũng đành phải chịu, không thể làm khác được.

Trên đường đi đến vực Tà Xùa, dân bản tràn xuống đường quốc lộ chặn đứng một đoạn đường. Cứ diễu thành đoàn mà đi thẳng, thi thoảng lại gặp chiếc xe tải phải dừng một chốc cho đoàn người đi qua thì mới có thể đi tiếp.

Tới miệng vực Tà Xùa, cái đài radio vẫn còn đang phát ra âm thanh xèo xèo ở dưới đất. Ông Dương chạy đến nhặt lại cái đài đút vô túi vải đeo trên người, rồi đảo mắt nhìn xuống dưới cái mép vực. Quái lạ thay, cái dây thừng lúc nãy đứt lìa mắc ở khe đá, vậy mà giờ đây lại có thể mắc lại ngay ngắn như trước đó nó chưa từng đứt vậy.

Bà cụ mon men tới miệng vực, theo kinh nghiệm của người già cả, bà cụ vừa nhìn vào sợi dây đã như đoán được điều gì. Bà cụ nói to:

- Đứa nào còn là đồng nam thì giải một bãi vào cái dây thừng này cho tao xem nào!

Bà cụ vừa nói xong, đã có vài thanh niên bản xung phong chạy tới, tiểu vào đúng chỗ hai cái sợi dây vắt vẻo gần cái xà lan sát miệng vực.

Nước tiểu vừa rớt xuống, thình lình cái sợi dây liền chuyển sang màu đen kịt, đôi chỗ có dấu vết như là ngón tay, bàn tay bám vào.

Ngay tức khắc toàn bộ đoàn người nhìn thấy cảnh tượng ấy, ai nấy đều xanh mặt. Ông Dương chạy đến gần bà cụ vội hỏi:

- Như thế là sao hả mẹ?

Bà cụ thở thều thào nói:

- Tao đã gàn rồi mà nó đâu có chịu nghe, chúng mày đi đến chỗ cái cây Liễu ấy thì ra cớ sự này cũng không có gì là lạ rồi!
Bà cụ dừng một chút rồi trỏ tay vào cái dây thừng nói tiếp:

- Cái dấu vết bàn tay kia là của ma nó vắt lên, chứ người nào có thể vắt lại được sợi dây ấy. Xưa nay quỷ che mắt, ma đưa đường đều trông có vẻ bình thường, nhưng gặp nước tiểu là biết ngay có phải cái giống ấy làm thật hay không. Nhìn cái sợi dây này, thì e là anh mày ở dưới kia gặp chuyện chẳng lành rồi.

Ông Dương vã mồ hôi nói:

- Vậy giờ thì phải làm sao thưa mẹ?

Bà cụ nói:

- Giờ thì tất cả đều phải xuống dưới ấy, người đông thì may ra át được khí âm. Nếu tìm ra nhanh nhanh chóng chóng thì còn có thể giữ cho thằng Khanh toàn mạng, bằng không thì chỉ có thể lượm xác nó về mà thôi...

Ông Dương nghe xong, chân tay đã run tới mức không còn có thể kiềm chế được nữa. Ông vội gọi mấy thanh niên bản hối gấp bọn họ nhanh chóng thả thừng xuống dưới rồi trèo xuống vực để tìm anh. Cả đoàn người tin theo lời bà cụ, hối hả thay phiên nhau trèo xuống dưới đáy vực.

Bà cụ đứng ở trên miệng vực căn dặn mọi người thật kĩ:

- Khi xuống tới nơi, thì mọi người phải đi sát vào nhau, không ai được tách ra. Nếu bị tách ra thì phải tri hô lên mà gọi ngay, bằng không sẽ rất nguy hiểm, bị quỷ che mắt, ma đưa lối. Trời vừa sáng nếu không tìm được thì thôi phải về ngay, nếu không thì sẽ bị ma quỷ dở trò lường gạt vào động quỷ của chúng mà không thể về được nữa.

Bà cụ còn căn dặn thật kĩ, nếu chỗ nào vắng người mà đột nhiên thấy có người con gái xuất hiện. Thì phải nghi ngay đấy là liễu quỷ, và cố gắng tránh đường vòng đừng để nó phát hiện ra. Nếu không một khi để nó phát hiện ra, nó sẽ biến mất, rồi hóa thành người giống như trong đoàn mà trà trộn vào đoàn người để lừa lọc từng người một, rồi đem ra chỗ vắng để giết.

Mọi người vâng vâng dạ dạ đều nghe lời bà cụ rất kĩ. Một vài người được phân công kĩ lưỡng là chờ trực ở trên miệng vực để trông chừng cái dây. Bà cụ cũng đứng ở trên miệng vực mà chờ đợi tin của ông Khanh. Bà năm nay đã già, đã không còn đủ sức để đi theo đoàn người xuống dưới vực nữa rồi.

Ông Dương dẫn đầu đoàn người, vừa trượt xuống đáy vực là đã bắt gặp khung cảnh u ám rợn người. Từng đoàn từng đoàn đốm lửa ma trơi lập lòe như vẫy gọi. Có tiếng gió xì xào bên những lùm cây tạo nên thứ âm thanh như các anh linh ma quỷ đang nói chuyện. Đám thanh niên bản mới đầu còn ai nấy hừng hực khí thế, thế nhưng giờ này đều đã run rẩy như cầy sấy vậy.

Một người thanh niên hối hả chạy đến gần ông Dương với khuôn mặt xám như tro thì thào vào tai ông:

- Chú Dương, hình như vừa rồi cháu có nghe thấy tiếng chú Khanh thì phải!

Ông Dương đang khẩn trương, liền vui sướng vội hỏi:

- Ở đâu?
Người thanh niên ấy nói:

- Dạ ở ngay trên vách núi, mà cháu vừa mới trèo xuống có thấy ai đâu. Nhưng lúc rồi rõ ràng cháu nghe thấy tiếng chú ấy gọi văng vẳng ở vách núi. Chú ấy còn gọi tên cháu rõ ràng mà lại...

Ông Dương gàn ngay:

- Vớ vẩn, mày lại thần hồn nát thần tính. Cả đoàn xuống có thấy cái gì đâu, chưa đi được mấy bước mà đã bị ma nó nhát đến vãi cả ra quần rồi thì còn làm ăn gì. Sợ ma hả?

Người thanh niên bị ông Dương quát nạt cho một chặp, liền như bị nói trúng tim đen, vã mồ hôi. Có điều, để cho đỡ ngượng anh ta vẫn đứng thẳng người lên vỗ ngực nói:

- Làm gì có chuyện ấy thưa chú. Chắc là vừa rồi cháu nghe nhầm, cháu sẽ chú ý hơn...

Ông Dương gật đầu nói:

- Thôi được rồi, nghe nhầm cũng là việc thường, đến tao vừa tụt xuống dưới này mà cũng đã muốn đu dây trèo lên ngay rồi, huống chi là đám thanh niên rơm chúng mày. Thôi, đi nhanh nhanh mà tìm ông anh tao về, kẻo trời sáng lại không về nổi đâu.

Ông Dương nói xong, hối hả tiếp bước gạt cái lùm cây, tiếng lá cây loạt xoạt, đôi lúc gió thổi thoảng qua khiến lá cây xà vào khuôn mặt như một bàn tay ai đó đang vuốt ve mặt người vậy.

Đoàn thanh niên theo sau ông dương có cả thảy hơn chục người, chính xác là mười bốn người, tính cả ông Dương là tròn mười lăm người tham gia vào hành trình giải cứu ông Khanh. Ông Dương lớn tuổi nhất, đều đã có vợ con, còn đám thanh niên này đều mới nứt mắt mới lớn. Chưa vợ con gì cả, thậm chí là người yêu cũng không có. Đám thanh niên mới đầu còn run sợ lắm. Thế nhưng càng về sau đi càng lâu dần sâu vào trong thung lũng đáy vực. Bọn họ người đông át cái sợ lại bắt đầu táo tợn trêu đùa nhau. Nghe bà cụ kể liễu quỷ hóa thành một người con gái thì ai nấy cũng đều vui vẻ lắm. Bình sinh bọn họ hiếm khi được tiếp xúc với con gái trẻ, vì lạ thay bản của bọn họ sinh ra phần lớn toàn là con trai. Con trai muốn kiếm vợ đều phải sang bản khác để tìm hiểu.

Bọn họ lại nghe nói cái giống yêu tinh hóa hình người là xinh đẹp lắm. Có người còn cho rằng dẫu một lần trong đời được gần gũi với yêu tinh thì thôi chết cũng được.

Những câu chuyện vui đùa ấy thôi thì cũng chỉ là bên lề. Thế nhưng về sau này không ngờ lời nói đùa ấy lại ứng nghiệm thành một sự thực. Chính cái anh thanh niên mà phát ngôn ra những lời nói ấy, lại là người đầu tiên phát hiện ra liễu quỷ.

Đoàn người đi đã lâu nên thấm mệt, một vài người tách ra đến ven suối để lấy nước. Trong những người ấy, có cả cậu thanh niên kia, ban đầu mặt suối vắng vẻ không có gì. Nhưng sau cùng nhóm bốn người đi lấy nước cho cả đoàn đột nhiên bị một trận gió thổi mạnh khiến bụi tung mù, lá cây đập vào mặt mũi mấy người tung bay khắp nơi.

Lúc sau khi ngọn gió ấy ngừng thổi, thì cậu thanh niên kia cũng đã không còn thấy đâu nữa. Người ta chỉ còn thấy bộ quần áo của anh ta bị rách tả tơi vương vãi trên mặt đất. Có người nhìn thấy xa xa bên kia suối, phía sau lùm bụi cây gai có bóng lưng người con gái nhấp nhô, thoắt ẩn thoắt hiện.

Khi ba người bọn họ về báo tin cho đoàn người, và quay trở lại tìm thì tại chỗ lùm cây ấy thì chỉ thấy có hai chiếc dép của chàng thanh niên kia, và một mớ rễ cây toàn bụi đất. Còn người thì lại chẳng thấy đâu...

Cả đoàn người cứ tìm mãi một chốc mà chẳng thấy gì, sau cùng đành bỏ cuộc. Lại căn dặn nhau kĩ hơn là từ giờ càng phải cẩn trọng. Bởi vì liễu quỷ có thể đã thực sự xuất hiện.

Đoàn người tiếp tục hành trình tìm kiếm ông Khanh, cho đến gần sáng mà không hề kiếm thêm được một chút tin tức nào. Bọn họ đành quyết định từ bỏ. Tất cả định quay đầu trở về...

Đúng khi ấy, bọn họ lại vô tình bị lạc vào một mảnh đất kéo dài, trơ chọi toàn sỏi đá không có bất cứ thứ gì mọc lên. Ở giữa khu đất ấy xuất hiện một cây liễu rất lớn, lá của nó màu đen màu đỏ xen lẫn.

Cả đoàn người ngơ ngác nhìn nhau, ú ớ không nói được câu nào...

Trong mắt ông Dương lúc này, chợt thoắt hiện lên vẻ tính toán. Ông nhìn đằng đẵng vô cái cây liễu to lớn mà liếm mép. Ông chợt quyết định, nếu như đã không tìm được ông Khanh, thôi thì cái cây liễu này cũng phải chặt để kiếm lấy món lời.

Dọc đường vì lý do phòng thân, nên thứ đồ nghề để chặt cây ông mang không sót món nào.

Mới đầu thì ông ta còn lo lắng cho người anh trai của mình, nhưng càng về sau, lòng tham của ông lại càng lớn, lại nghiêng về việc chặt liễu nhiều hơn.

Vì vậy, trên đường đi, ông Dương đã không ít lần bơm cái tư tưởng chặt liễu về đem bán cho đám thanh niên. Đám thanh niên khi ấy không quan tâm đến tiền nhiều lắm, nhưng ông Dương lại bơm rằng nếu mỗi người sở hữu một miếng gỗ liễu, thì sau này về hay mơ thấy gái đẹp. Lại còn lấy được vợ đẹp vì hưởng phúc âm ké nữa.

Những lời nói lừa lọc ấy, nhanh chóng làm lu mờ đi những lời cảnh cáo của bà cụ.

Ngay khi tất cả đều chán nản muốn quay về, thì cái cây liễu này lại như ma xui quỷ khiến thế nào, lại xuất hiện ở ngay trước mặt bọn họ.

Đoàn người vui vẻ lắm, ông Dương trước tiên chọc cái con dao nhọn đâm xuống dưới mặt đất dõng dạc hô to nói:

- Chặt nó, vì sự nghiệp làm giàu của bản ta... Vì sự trả thù cho ông anh trai tao và bạn của chúng mày!

Đám thanh niên hô to hưởng ứng:

- Chặt nó, làm giàu, báo thù...

Xen lẫn trong những âm thanh đồng thanh hô to đầy khí thế, còn thi thoảng chen thêm một vài câu nói khe khẽ:

- Vì lấy được vợ đẹp...

Đám người hùng hổ, tay dao tay búa phăm phăm lao về phía cái cây. Cành cây liễu toàn lá đen đỏ thì rung rung lên như muốn mời gọi một cách đầy thích thú.

Ông Dương hùng hổ lao tới trước, cả đoàn người bước càng gần cái cây liễu thì càng cảm thấy hơi ngột ngạt khó thở. Nhưng suy cho cùng ai nấy đều không sợ chết.

Những nhát dao búa đầu tiên được bổ xuống, vang lên những âm thanh lục bục như chặt vào da thịt. Nhựa cây nhờn nhờn phun ra một màu đỏ tươi. Lá cây xào xạc đung đưa tạo thành những âm thanh như tiếng người con gái khóc thút thít vậy.

...

Trở lại việc ông Khanh.

Sau khi ông phát hiện ra cây liễu cổ ấy, liền lập tức quay trở về bản ngay, dọc đường đi ông không hề gặp phải bất cứ thứ gì lạ lùng. Cho đến khi quay trở lại vách đá, ông Khanh có thể nhìn thấy ngay được sợ dây thừng mà bị vắt vẻo ở vách đã từ lúc nào được nối liền chặt. Nó được buộc ngược trở lại bên trên, sợi dây thừng chắc nịch như chưa từng bị tuột.

Ông Khanh lẩm nhẩm:

- Cái thằng Dương này hay thật, lúc cần thì gọi không thấy đâu, lúc không cần gọi thì lại tự động chạy xuống nhặt dây buộc lên lại cho anh, đến là kỳ lạ.

Ông Khanh men theo sợi dây đã được buộc một cách chắc chắn, túm lấy sợi dây ấy rồi bắt đầu trèo lên một cách thật từ từ chậm rãi. Dây thừng đung đưa qua lại vang lên những âm thanh lách tách vì sức nặng của người ảnh hưởng vào nó.

Lên đến gần miệng vực, sợi dây thừng bỗng chuyển rời dần dần thành một màu đen kịt. Có những giấu vết hình bàn tay dần dần được hiện ra. Ông Khanh nheo mắt nhìn kĩ, thì thấy cái dấu vết hình bàn tay ấy nó bấu kĩ vào trong sợi dây thừng hằn sâu thành một vết sâu hoắm cỡ cả xăng ti mét.

Càng lên gần miệng vực thì cái dấu vết hình bàn tay càng dày đặc. Dấu vết bàn tay ấy nhỏ thó như là tay của con gái, ngón tay mảnh dẻ chỗ lồi chỗ lõm giống như khi bàn tay ấy bấu vào thì chỗ nông chỗ sâu. Tưởng tượng như là một bàn tay đã bị thối giữa mất một đoạn thịt trơ ra khúc xương và chỗ thịt chỗ xương ấy cứ ngắt quãng nhau mà bám vào sợi dây thừng, mới có thể tạo ra được loại dấu vết như vậy.

Dấu vết hình bàn tay ngắt quãng cách nhau độ chừng nửa mét. Kèm theo đó là thi thoảng lại dính một chút mồ hồi vương vãi ở sợi dây thừng. Dấu vết ấy chứng tỏ là vừa mới rồi còn có người leo xuống ở sợi dây thừng này. Mà mồ hôi nhiều như vậy thì lại càng chứng tỏ không thể là một người được, mà chính xác hơn phải là một nhóm người thì mới đúng.

Ông Khanh nheo mày, không có lẽ nào ông Dương lại thấy mình không quay lên, mới phát hiện sợi dây thừng bị đứt, từ đó quay đầu về bản gọi người. Và đám người ấy cũng vừa mới quay trở lại và leo xuống vực tìm ông? Nhìn những dấu vết ở sợi dây thừng thì ông Khanh chắc mẩm thứ suy đoán của mình là đúng.

Ông toan tiếp tục trèo lên, vì khoảng cách giữa ông và cái miệng vực chỉ còn khoảng độ một mét. Ông sẽ nghỉ ngơi một chốc ở trên đấy, rồi chờ đợi đoàn người kia quay về xem sao. Hoặc chí ít là cũng về bản để hỏi thăm tin tức xem liệu rằng cái sự suy luận của ông có phải là đúng hay không. Thì ngay lập tức sau đó, ông giật mình kinh hãi, cái bàn tay ông suýt buông thả sợi dây thừng mà ngã xuống vực. Đập vào đôi con ngươi của ông là một cái xác bầy nhầy thịt, toàn bộ đều đỏ nhuốm máu lộ ra những đường gân trong thớ thịt. Cái xác ấy chính xác hơn là đã đã bị lột da, hơn nữa là lột da toàn thân. Điểm kì lạ ở đây lại chính là dù bị lột da nhưng lại có thể thấy được là cái xác vẫn đang mặc quần áo.

Qua diện mạo của bộ quần áo ấy, ông Khanh lại càng khiếp sợ hơn bởi vì cái người mà ông nghĩ tới lại là một người trong bản của ông.

Ông cố nén sự khiếp sợ, tiếp tục bò lên trên miệng vực. Lại một lần nữa ông Khanh phải kinh hồn táng đảm, vì ở trên miệng vực Tà Xùa này tiếp tục có thêm hai cái xác y hệt như vật.

Có cái xác còn bị bẻ gãy trụi hết răng, có cái thì bị móc lòi cả lưỡi ra ngoài, những cái chết hết sức kinh tởm mà ông không thể tưởng tượng được, rốt cuộc là đã có chuyện gì xảy ra ở đây. Tại sao lại có những người chết này? Những người này lẽ nào là những người được giao ở lại trông sợi dây thừng để tránh biến cố? Nhưng tại sao họ lại chết thương tâm và hết sức đáng sợ như vậy? Một cái chết kinh hồn táng đảm, chẳng lẽ liễu quỷ thực sự có thật?

Ông Khanh gật đầu cho là phải, bởi vì xưa nay giống cây liễu chẳng có giống nào mà lại có lá cây màu đen màu đỏ xen lẫn cả, hơn nữa chúng lại còn phát sáng thì đúng thật là quỷ dị. Nhìn diện mạo những cái xác, nếu không phải là quỷ làm thì nào có thể có chuyện những cái xác được lột da mộ cách tinh xảo và tỉ mỉ đến như vậy. Những chuyện như thế chỉ có quỷ mới có thể làm được.

Gác lại mọi sự suy tính, ông Khanh thấy việc cần thiết nhất ngay lúc này là phải về bản một chuyến gọi người tới giúp. Rồi thuận tiện tìm hiểu xem có chuyện gì đã xảy ra như vậy.

Nghĩ bụng, ông Khanh men theo con đường quốc lộ 37, bắt đầu trở về bản.

Về đến bản, ông thấy cả bản đều thắp sáng đèn. Chứng tỏ rằng hôm nay cả bản đều đã bị chuyện gì đó đánh động, nên mới thức dậy đồng loạt như vậy.

Ông Khanh vội vã chạy vô vào một căn nhà gần nhất, định bụng hỏi thăm một chút về tin tức những người đã đến bên vực Tà Xùa.

Nhưng khi ông vừa bước vào căn nhà, thì lại cảnh tượng kinh hãi ấy xuất hiện. Toàn bộ những người trong căn nhà này đều đã bị lột da, mà vẫn còn mặc nguyên bộ quần áo. Tình trạng đều giống hệt như những cái xác đã chết ở bên miệng vực.

Chạy qua một vài căn nhà nữa, ông Khanh đều thấy tình trạng tương tự diễn ra. Những người như trẻ con hay người già thì còn đỡ một chút, vì chỉ bị lột da ở khuôn mặt. Còn những người trung niên lớn tuổi đa phần đều bị lột sạch da không còn sót chỗ nào.

Ông Khanh hoảng sợ, đột nhiên nghĩ ngay đến cảnh đứa con gái của ông. Nó sẽ ra sao nếu như cũng bị như vậy?

Sau khi vợ ông Khanh chết, cái Thương con gái của ông là người duy nhất còn sót lại để ông có thể nương tựa vào nhau khi về già.

Trong căn nhà ấy, có bà cụ, ông và cái Thương sông dựa vào nhau. Giờ chuyện này xảy ra, ông Khanh lo nghĩ đến bà cụ, lại càng lo nghĩ hơn đến sự an toàn của đứa con gái.

Ông chạy như bay về phía căn nhà ở đỉnh đồi mé cuối bản.

Đến nơi, ông thấy căn nhà đã bị đóng sập cửa, không thắp lửa đèn như những nhà khác. Cả căn nhà tối đen như mực, ánh sáng heo hắt ở góc bếp. Bếp lửa lom đom kêu lên những âm thanh lách tách của lửa cháy. Trong góc nhà, ông Khanh chợt nom thấy vóc dáng của bà cụ. Bà cụ ngồi im thẫn thờ như một cái xác không hồn.

Ông Khanh chợt cất tiếng hỏi:

- Mẹ à, mẹ có sao không?

Cái bóng bà cụ không trả lời, mà chỉ thẫn thờ như một cái xác không hồn. Bà cụ lắc đầu tỏ như không có chuyện gì.

Ông Khanh thở phào nhẹ nhõm, rồi rón rén bước vào buồng ngủ. Dõi theo vào cái giường ở góc buồng, thì thấy bé Thương con gái ông vẫn đang ngủ ngon lành như chưa có chuyện gì xảy ra.

Ông Khanh mừng lắm, liền quay đầu ngược trở ra nói với bà cụ:

- Đêm nay mẹ đừng đi đâu, ở nhà trông chừng con bé cẩn thận giúp con. Con có việc phải đi lên xã ngay...

Ông Khanh giấu nhẹm chuyện xảy ra với cả bản, vì sợ bà cụ già cả rồi không còn chịu nổi. Sau đó ngay trong đêm, ông mò xuống đường quốc lộ đi bộ đến trụ sở xã.

Địa bàn huyện Bắc Yên này rộng lớn, để đi từ bản đến xã phải mất cả chục cây số. Ông Khanh phải đi bộ mấy tiếng đồng hồ liền để đến trụ sở xã.

Đến nơi, thì trời cũng vừa hửng sáng, ông Khanh chờ thêm một hai tiếng thì cán bộ xã cũng đến làm việc. Ông vội vã đem sự việc xảy ra với cả bản mình trình báo lên trưởng công an xã.

Trưởng công an xã lúc này là ông Páo, ông Páo vừa nhìn thấy ông Khanh nhễ nhại mồ hôi, gương mặt thất sắc thì liền hỏi:

- Ông kia, có chuyện gì thì nhanh nhanh trình báo đi!

Ông Khanh nuốt nước bọt, cuối cùng gượng nói đem tất cả những chuyện xảy ra vào đêm hôm qua kể lại tường tận.

...

Ông Dương hối thúc đám thanh niên chặt thật nhanh gốc cây liễu để đem về. Nhựa của cây liễu này đỏ tươi như máu, phun vào mặt người liếm ra lại có vị mằn mặn.

Ông Dương là người tích cực nhất, đã chặt nhát nào là nhát đấy sâu hoắm, đám thanh niên sức khỏe chặt cũng không bằng.

Nhưng có lẽ vì chặt hăng quá, nên ông Dương cũng không để ý rằng. Xung quanh ông, từ lúc nào tiếng dao búa cứ nhỏ dần nhỏ dần rồi biến mất hẳn.

Đến khi ông Dương tạm nghỉ tay thì quay ra đã chẳng thấy còn người nào cả, ông xoay người đi tìm gọi to đám thanh niên. Mà gọi mãi, gọi mãi cũng chẳng thấy ai trả lời.

Tức mình, ông Dương rủa lên chửi đổng nói:

- Mẹ khiếp, lũ trẻ ranh, chưa thấy ma đã són đái ra quần mà chạy rồi. Đã thế để mình ông đây chặt, ông đây hưởng, đến lúc ấy thì đừng có mà mở mồm ra mà đòi chia phần...

Ông Dương xoay người, vung một nhát dao thật mạnh hướng cái thân cây mà bổ vào, chẳng thèm nhìn.

Bộp!

Nhưng rồi con dao mèo của ông chặt phải một thứ gì đó như chặt thịt, thứ chất lỏng nóng ấm phun ra bắn cả vào mặt của ông Dương.

Ông Dương lại rủa:

- Mẹ khiếp, sao nhựa cây này lại nóng thế nhỉ!

Cái chất lỏng ấy giống hệt mùi nhựa cây, cũng đỏ như máu.

Ông Dương dụi mắt lau thật kĩ hết thứ chất lỏng bị bám vào mắt, rồi mới nheo mắt nhìn kĩ, định bụng tiếp tục chặt.

Nhưng sau đó ông lập tức thảng thốt kêu lên:

- Trời ơi!

Đập vào mắt ông Dương, là một quang cảnh hết sức quỷ dị.

Mười ba người thanh niên đồng loạt xuất hiện trước mặt ông. Họ bị chặt làm nhiều khúc, đầu thì bị chặt riêng ra treo lủng lẳng trên cây liễu. Dao búa thì trong mỗi cánh tay mỗi thứ một nơi, xác họ bị chặt ra làm nhiều khúc, bàn tay và hướng thân người hình như đều hướng đến bổ vào người nhau.

Ông Dương hãi hùng, vội quăng con dao mèo xuống dưới đất quay đầu chạy trối chết. Ông đã thực sự gặp phải quỷ thật rồi.

Khi nhìn vào cái cây Liễu ấy, ông Dương phát hiện thân cây chẳng hề tổn hại mảy may một chút nào cả. Thậm chí những vết chặt sâu hoắm trước đây mà ông Dương vẫn tự hào với đám thanh niên thì cũng chẳng thấy đâu cả.

Ngược lại, ông Dương lại thấy những cái xác trước mặt ông bị chặt đến sâu hoắm. Mường tượng ra thì vết chặt sao lại giống với khi ông nhìn thấy mà chặt vào thân cây đến như vậy.

Một sự thật kinh khủng hiện ra trong đầu ông, một hình ảnh lu mờ nhưng khi tỉnh táo ông dần nhớ đến.

Từng cảnh tượng hãi hùng dần xuất hiện trong ký ức của ông Dương.

Những người thanh niên khi ấy hùng hổ lao về phía cái cây, vung lên những nhát dao búa đầy mạnh bạo. Nhưng không ngờ họ lại như bị thôi miên vậy. Những nhát dao búa ấy không hướng cái cây chặt tới, mà đột nhiên chuyển hướng về phía đồng bạn bên cạnh mình chặt xuống.

Có người thẩn thờ tỉnh lại vì kinh hãi, nhưng đã thấy dao chặt sâu đến nửa cổ. Có người thì khi bị chém đến bay đầu rồi mới không tin được lại đột nhiên tại sao đầu mình lại lìa khỏi cổ.

Người tỉnh lại thấy đồng bạn hướng mình chặt chém thì kêu gào rất thảm thiết. Nhưng những người mà đang cầm dao bùa chém kia thì vẫn không ngừng tay chém hết sức hào hứng vui vẻ y như cái lúc ông Dương kích động vậy.

Người bị chặt cụt cái tay, tỉnh lại quỳ xuống thảng thốt van nài cầu xin, xua tay còn lại giơ lên kêu gào. Thì nhát dao tiếp theo cũng bổ tới chém rụng nốt cái tay. Người kia rú lên một tiếng vì đau đớn, chưa kịp nói câu gì thì những nhát dao liên tiếp lại vung đến, bàn tay, cánh tay người ấy cụt dần. Sau cùng là chặt đến chân, đến nửa thân người bị xẻ đôi. Cuối cùng đến khi chỉ còn lại cái đầu thoi thóp dính thân ở cổ, đang thở phì phò cũng bị chặt nốt rồi treo đầu lên cây. Cả quá trình những người ấy bị chặt sống từng khúc hết sức kinh tởm, đều được ông Dương nhớ lại.

Sau cùng còn lại hai ba người thanh niên, sau khi đã giết hết đồng bạn thì lần lượt đưa dao lên cổ tự bập dao của mình vào cho cái đầu rớt xuống.

Người cuối cùng là ông Dương sống sót thì lần lượt đem từng cái đầu, mảnh xác của từng người mà treo lên cây. Trong công cuộc giết người chặt xác, thì lúc ấy ông Dương còn là kẻ hăng nhất. Không ít những nhát chém tóe máu, chém ngọt sớt nhất đều là của ông ta.

Ông Dương kinh khủng nghĩ đến cảnh tượng ấy, liền lập tức hiểu ra lý do tất cả đều có một cái chết kinh khủng như vậy, đều là do liễu quỷ.

Ông quay đầu chạy trối chết hướng miệng vực mà chạy tới. Trong cái túi vải ông khoác đeo sau lưng, tiếng radio đột nhiên phát ra. Rõ ràng là ông Dương không hề bật đài, mà tại sao radio lại tự bật lên được.

Tiếng âm thanh quái dị lập tức xuất hiện, tiếng động rên rỉ nỉ non như tiếng người con gái gào khóc hệt như lúc ông dò đài trên miệng vực Tà Xùa.

Ông Dương chạy trối chết, càng chạy hăng thì tiếng âm thanh càng vang to, rồi bóng người con gái thì thoảng ngồi ủ rũ ở một cái bụi cây ven đường cứ liên tục xuất hiện bám đuổi ông, nó liên tục khóc thút thít như muốn đòi ông trả lại mạng cho nó.

Chạy đến chân mỏm đá, ông Dương nom thấy một mớ máu thịt bầy nhầy, mà vừa thoáng nhìn qua cái bóng dáng ấy, ông liền lập tức nhận ra ngay đó là ai.

Ông Dương thét toáng kêu đến lợm giọng:

- Mẹ!

Bà cụ rớt từ trên miệng vực xuống, đầu đã bị vỡ tung thành một mớ thịt vụn, chỉ còn lại cái thân người bầm dập là còn nguyên vẹn.

Ông Dương ôm xác bà cụ kêu gào, nhưng chỉ được một chốc là sống lưng ông lại gai lạnh. Cách ông chỉ chừng nửa mét, cái bóng người con gái lờ mờ đột nhiên xuất hiện. Mặt nó trắng bệch không rõ mặt mũi, mớ tóc dài xơ xác toàn bụi đất bám vào, nó ẩn hiện trong làn khói sương và cây bụi cười lên những âm thanh khúc khích đầy man rợ.

Ông Dương lập tức quay đầu, tuyệt vọng bám lấy sợi dây thừng hùng hục trèo lên trên. Ông trèo như điên như dại, nghoảnh lại thì chỉ nhìn thấy con quỷ cũng đang bắt đầu bám vào sợi dây, bắt đầu trèo lên đu

4 0
やまざき てがみ UwU | Chat Online Report
dài quá
1 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 14:01:15
Chat Online
OAN HỒN TRUYỀN KIẾP

– Dưới quê trời mau tối quá hả anh? Mới bảy giờ mà em có cảm giác như khuya lắm...

***

Tranh thủ lúc bà Sáu ra sàn nước, Huyền Nga đến bên cạnh Sơn nói nhỏ:

– Buồn chết đi được. Chẳng có tivi, cũng không có điểm giải trí nào.

– Không buồn đâu. – Sơn mỉm cười kéo Nga vào sát lòng mình – Tại em lần đầu về quê nên chưa biết đấy thôi. Ở quê cũng có cái vui của người miền quê vậy.

– Vui gì đâu chứ? – Vừa phụng phịu Nga vừa đưa mắt hướng về phía cửa, canh chừng. Dù đã được giới thiệu là người yêu, nhưng Nga không dám tỏ ra thân mật quá với Sơn như khi ở thành phố trước mặt ba mẹ của cô. Mẹ đã dặn kỹ cô rồi. Dưới quê người ta phong kiến lắm. Rất ghét mấy chuyện trai gái... thân mật cùng nhau.

– Đừng sợ, má anh không khó lắm đâu.

Như hiểu ý cô, Sơn nghịch ngợm hôn lên môi cô một cái.

– Ở quê nhưng bà tân tiến lắm, không tin em cứ thử hôn anh một cái trước mặt bà thì biết...

Lời chưa dứt, bà Sáu chợt bước lên với cây đèn dầu. Bà đi nhẹ quá, làm đôi bạn không kịp phát hiện ra. Đến khi nghe tiếng động, giật mình quay lại thì... đã muộn mất rồi. Bà đã ở sau lưng.

– Má... – Ngượng ngùng... Sơn nhẹ đẩy Nga ra khỏi người mình khỏa lấp – Làm gì má cứ bận rộn hoài vậy, ngồi chơi với tụi con một lát đi.

– Chơi gì nữa. – Bà vặn nhỏ cây đèn xuống – Tối rồi hai đứa đi ngủ đi cho khỏe. Cả ngày ngồi trên xe rồi không biết mệt sao?

– Đi ngủ! – Đôi mắt Nga mở lớn nhìn Sơn như hỏi "Chưa tám giờ đã lên giường ngủ rồi ư? Làm sao mà ngủ được?"

– Ừ thì ngủ... – Không nhận ra vẻ kinh ngạc của Nga bà Sáu gật đầu.

Thằng Sơn ngủ ngoài bộ ván gõ. Nga vào buồng ngủ với bác. Mùng bác đã giăng rồi... để bác cài cửa lại.

– Khoan má ơi! – Sơn vội kêu lên – Tụi con chưa buồn ngủ đâu. Ở thành phố thức khuya quen rồi, giờ chui vô mùng ngộp chết. Má cho tụi con đi chơi một chút.

– Đi chơi... Bà Sáu trợn mắt – Giờ này mà đi chơi! Tụi bay muốn đi đâu? Có gì mà chơi chứ?

– Thì đi vòng vòng... tâm sự. – Sơn nheo mắt ra hiệu cho bà Sáu làm Nga xấu hổ quá trời – Vậy đó, người ta yêu nhau mà... má hiểu không? Con muốn dắt Nga tham quan mả ông Hội đồng, danh lam thắng cảnh đẹp nhất quê mình...

oan-hon-truyen-kiep

Nói đến đây, Sơn chợt tủm tỉm cười. Hạnh phúc nghĩ đến những nụ hôn của mình sẽ dành cho Nga khi vào đến ngôi nhà mồ lớn nhất vùng này. Từ nhỏ, bao lần anh đã theo đám bạn đến rình xem người lớn đến đây tâm sự. Bao trò nghịch phá của lũ quỷ tụi anh đã làm người lớn phải điêu đứng, khổ sở rồi. Chà! Anh vẫn chưa quên, lần đó có một đôi nhân tình... lẻn vào ngôi nhà mồ âu yếm đã bị bọn anh giấu sạch áo quần. Báo hại cô gái một phen xấu hổ... hiện bây giờ... anh và Nga vào đó, có bị lũ oắt con nào trộm nhìn không?

– Cái gì? Vào mả ông Hội đồng à? – Giọng bà Sáu chợt la to cắt ngang dòng suy tưởng đầy lãng mạn của anh – Không được đâu. Mả ông Hội đồng bây giờ nhiều ma lắm.

– Con không sợ ma đâu, chỉ sợ lũ quỷ con thôi. – Sơn cười rồi nắm tay Nga kéo dậy – Đi em. Đi xem danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất quê anh.

– Dạ thưa bác con đi. – Nga cúi đầu chào lí nhí rồi bước theo Sơn.

Giọng bà Sáu la to đuổi theo :

– Đi đâu thì đi, không được vào mả ông Hội đồng đó. Tao nói thật, ở đó bây giờ ma nhiều lắm.

– Sao hả? – Đi một hơi đến bờ đất, Sơn mới dừng chân quay lại nhìn Nga cười trêu chọc – Má anh bảo mả ông Hội đồng nhiều ma lắm. Em có dám đi không?

– Sao không dám? – Nga nghiêng đầu cười tươi như hoa nở – Anh đừng có hù em. Em không tin trên đời này có ma đâu.

Sơn cũng thế. Cũng không tin vào chuyện ma quỷ hoang đường. Nhưng... để dọa người yêu, anh vờ nghiêm nét mặt :

– Em đừng nói cứng, một lát gặp ma rồi lại khóc ầm lên. Nói thiệt cho em biết, anh đã từng gặp ma rồi đấy.

– Thôi, đừng xạo quá ông à. – Chỉ tay lên trán Sơn, Nga bật cười giòn rồi đưa mắt nhìn quanh – Đúng là ở quê có nhiều cái thật lạ đó. Nhà mồ cũng trở thành danh lam thắng cảnh được.

Nghe Nga nói, Sơn lại tủm tỉm cười. Không nói gì, anh nắm tay Nga lặng bước đi trong đêm. Trăng hôm nay sáng quá, soi tỏ bóng hai người chập chờn trong bóng lá. Tiếng côn trùng rỉ rả hòa lẫn tiếng gió đêm yên bình lạ. Cảnh quê đẹp như tranh vẽ.

"Khu du lịch mả ông Hội đồng xin kính chào quý khách".

Mở then cửa gài, Sơn cúi mình gập tay vui vẻ mời Nga. Cô ngước mắt nhìn quanh ngơ ngác :

– Đã đến rồi hả anh? Ồ, ngôi nhà mồ đẹp quá, giống hệt như cung điện vậy.

Nói rồi không đợi Sơn hướng dẫn, Nga tung chân chạy trước. Bóng cô chập chờn khuất sau hàng cây kiểng.

Mỉm cười, lắc đầu chào thua tính hiếu kỳ của cô người yêu nhỏ, Sơn bước thông thả trên hàng sỏi. Quen thuộc quá! Lòng anh nao nao một cảm xúc. Tuổi thơ như vụt trở về đầy ắp. Năm năm rồi... lần đầu tiên anh đặt chân lên khu nhà mồ gắn liền với một thời tuổi thơ phá phách của mình.

Cảnh vật vẫn nguyên vẹn không có gì thay đổi. Vẫn là khu nhà mồ tọa lạc trên hai công đất, nền vuông vức. Chà! Cúi nhặt một trái xoài chín cây rụng dưới chân. Sơn thầm ngạc nhiên cho đám con nít quê mình. Bọn chúng bây giờ ngoan quá. Trái chín vàng cây, rụng đầy đất cũng không thèm nhặt. Chẳng bù cho bọn anh lúc trước... tất cả cây trái quanh khu mộ, dở ngon, to nhỏ gì cũng đều lặt sạch, không chừa. Báo hại ông từ giữ mộ phải xách roi đuổi chạy không kịp thở.

Ông từ. Lòng Sơn lại nao nao. Anh không biết ông còn sống không? Nếu còn hẳn ông đã già lắm rồi. Tội nghiệp ông cô đơn còm cỏi một mình, không vợ, không con, chỉ sống nhờ vào phần đồ cúng ít ỏi để trông coi khu mộ. Vậy mà bọn anh ngày xưa, còn phá phách trêu chọc ông đủ trò. Sơn lại thấy hối hận cho các trò nghịch ngợm của mình.

Theo lời mẹ kể thì khu nhà mồ đã được xây dựng lâu lắm rồi. Trên dưới có gần hai mươi ngôi mộ được chôn cất nơi đây. Nhưng lớn nhất, quy mô nhất chỉ có mộ của ông bà Hội đồng thôi. Đó là hai ngôi mộ lớn bằng đá hoa cương được xây trong nhà mồ. Con cháu của ông Hội đồng còn không chẳng ai biết. Chỉ biết thỉnh thoảng đôi ba năm mới có một cô gái trở về, cô ta trả tiền cho ông từ. Thuê nhân công sơn mới ngôi mộ rồi lại ra đi. Cô ta là gì của ông bà Hội đồng không ai biết. Lúc nhỏ, Sơn cũng một lần trông thấy cô ta rồi chẳng biết bây giờ cô có còn về đưa tiền cho ông từ nữa không? Sao ngôi nhà mồ có vẻ hoang vắng, điêu tàn quá.

Vừa đặt chân lên bậc tam cấp chưa kịp bước vào, mũi Sơn đã chun ngay lại. Trời ơi... hôi thối quá! Bọn tình nhân này tệ thiệt. Đến tâm tình rồi còn tè bậy, thiệt là bậy quá!

Tặc lưỡi trách đổng một câu, Sơn bước vội trở ra. Đến ngồi vào chiếc ghế đá dưới cây nhãn lớn. Anh lên tiếng gọi :

– Nga ơi, em lục lạo đi đâu vậy? Lại anh nói này nghe.

Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng chân bước lào xào trên cây lá. Sơn mỉm cười ngồi yên. Định chơi trò bịt mắt hù anh à? Không dễ đâu. Chờ cho bước chân Nga đến sát bên mình anh quay lại thật nhanh.

– Hù.

Tiếng hù chưa thoát khỏi miệng đã thu hồi vào cổ. Đôi mắt Sơn trợn trừng mở lớn. Sau lưng anh không phải Nga, không phải cô người yêu xinh đẹp anh mong đợi mà lù lù một đống trắng tươi. Chẳng ra hình thù gì cả.

Ma ư! Sống lưng Sơn lạnh toát! Nhưng anh gạt đi ngay, trách mình thần hồn nát thần tính. Đã quá hiểu tính nết của Nga hay quậy phá, vậy mà còn để bị mắc lừa. Mỉm cười, anh đưa tay lên môi, banh rộng cái miệng mình ra, lùi trở lại :

– Ta cũng là ma đây, sợ chưa nào?

Rồi vung tay ra trước tóm lấy cái bóng trắng. Nhưng thật bất ngờ, bàn tay anh như khuấy vào khoảng không vô hình. Tiếng cười bỗng bật lên giòn tan, bóng trắng không còn nữa.

Mình gặp ma thật ư? Mồ hôi bắt đầu rịn ra khắp thái dương Sơn. Chợt nhớ đến Nga, anh vùng lên, cuống quýt :

– Nga... Nga ơi!

– Em đây, anh làm gì mà hốt hoảng vậy?

Cành cây xao động rồi Nga hiện ra ngay, tay cầm chùm nhãn chín, và cười nhí nhảnh :

– Ở đây nhiều nhãn quá thích quá.

– Em, em không thấy gì ư? – Sơn lắp bắp hỏi.

Nga tròn đôi mắt :

– Sao không thấy. Em đã đếm rồi. Có cả thảy hai mươi hai ngôi mộ. Có hai ngôi mộ mới chôn, anh sao vậy?

Đang nói, chợt thấy mắt Sơn trợn trừng nhìn về phía trước, Nga đánh nhẹ xuống vai anh ta ngơ ngác :

– Ma... ma... – Ngón tay chỉ về phía trước, Sơn nói như kẻ sắp đứt hơi.

Nga quay đầu lại lạ lùng :

– Anh nói gì vậy, ma nào?

Sơn khó khăn gằn từng tiếng :

– Ma thần Vòng, anh thấy rõ ràng, có hai con, nó vừa bay qua trước mắt anh!

– Hai con ma thần Vòng! – Nga bật lên cười ngất ­ Thôi đừng đùa gạt em nữa mà. Em không có sợ đâu.

Rồi cô ngồi xuống cạnh Sơn, so so vai :

– Cảnh ở đây nên thơ thật. Sơn à, anh muốn nói gì thì nói đi.

– Mình về thôi em. – Sơn chợt nắm tay cô đứng dậy.

Nga cau đôi mày, hụt hẫng.

– Vừa mới đến đã về là sao? Em không chịu. Anh chưa hôn em gì cả.

– Ngày mai, về Sài Gòn anh bù cho. – Sơn gầt đầu gấp rút – Về thôi, mẹ nói đúng. Ở đây có nhiều ma lắm.

– Lại ma! – Nga giậm chân tức giận – Hôm nay anh làm sao thế? Tự dưng tin vào mấy lời nhảm nhí hoang đường đó. Thế kỷ hai mươi mốt đến rồi, người ta lên tới mặt trăng mà còn tin vào ma quỷ. Em nói vậy không đúng sao mà anh đánh em chứ?

Đang nói Nga bỗng la to, Sơn ngơ ngác :

– Anh đánh em bao giờ?

– Anh đừng chối, rõ ràng vừa tát em vào má một cái đau điếng đây. Ui da, lại còn đấm vào hông em nữa. – Nga giận dữ.

– Trời ơi! – Sơn vụt ôm cứng Nga vào giữa lòng mình – Em đừng nói nữa, không phải anh đánh em đâu mà là ma đó.

– Dẹp anh đi. – Vùng thoát khỏi vòng tay của Sơn, Nga la lớn – Ma quỷ gì đâu. Em không tin. Ngon thì hiện ra trước mắt em đi... á!

Đang nói, Nga bỗng dưng nín bật, mắt trợn tròn có vẻ cứng đờ. Biết cô đã nhìn thấy gì rồi, Sơn sợ quá, không dám quay đầu lại, nắm lấy tay Nga, anh gọi :

– Nga, Nga.

"Bịch", như một trái mít rụng, Nga té bẹp xuống đất ngất xỉu. Sơn vội đỡ lấy cô, từ từ quay đầu lại. Không phải trong mơ, cũng chẳng phải chuyện đùa. Một bộ xương khô đang lững lờ tiến tới. Cái hốc mắt trũng sâu, hàm răng nanh nham nhở cười trên cái đầu lâu. Con ma càng lúc càng tiến gần anh hơn.

Không! Bản năng sinh tồn chợt bùng lên. Sơn chụp nhanh đôi giày cao gót ném mạnh về phía con ma.

Vèo!

Chiếc giày xuyên qua người con ma như xuyên qua một khoảng không. Con ma vẫn lững lờ tiến đến mỗi lúc một gần. Bàn tay nó uốn cong ra, sắp bóp được cổ anh rồi.

Không! Sơn vùng đứng lên, ôm Nga chạy thật nhanh, nhảy qua một con mương, anh hét lớn thất thanh, cầu cứu :

– Ma... ma, bớ người ta cứu tôi!

– Có chuyện gì vậy? Ai vừa kêu cứu hả?

Bốn phía chợt dậy lên ánh đuốc sáng trưng. Nhận ra họ là những anh dân phòng, Sơn mừng quá, thều thào :

– Ma, tôi vừa gặp mal

Không có vẻ kinh ngạc cũng như tiếng cười chế giễu nào phá lên từ miệng họ. Bốn anh dân phòng thản nhiên đưa mắt nhìn nhau như vừa được nghe một chuyện rất bình thường. Bất chợt, một anh trong đám họ reo lên mừng rỡ :

– Sơn, có phải thằng Sơn đó không?

Cố hoàn hồn, Sơn nhìn kỹ người vừa gọi tên mình rồi cũng reo lên mừng rỡ :

– Trời ơi thằng Hải "nấm", lâu quá rồi còn gì...

Hai người bạn cũ ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Một anh dân phòng kêu lớn :

– Mau đưa cô gái vào nhà ông từ cứu tỉnh rồi hàn huyên tâm sự sau. Chần chừ hoài coi chừng con ma tới đây thì khổ.

Lời nhắc như có phép mầu. Hải vội xô Sơn ra, cùng đám bạn vội dìu Nga về phía túp lều của ông từ. Nghe tiếng động nãy giờ, ông như cũng đã đoán được chuyện gì. Đốt to mấy ngọn đèn, ông mở rộng cánh cửa ra chờ họ tới.

– Cô bé không sao. Vì sợ quá nên ngất xỉu thôi. Chỉ cần xoa dầu và cho uống chút nước gừng là khỏi thôi. ­ Ông từ nói sau khi bắt mạch cho Nga.

– Cám ơn ông! – Sơn nói với vẻ biết ơn.

Ông từ đã già lắm rồi, hơn bảy mươi chứ ít ỏi gì. Mái tóc ông bạc trắng. Ông vẫn vô tình không nhận ra Sơn lúc anh nghe lòng trào dâng niềm xúc cảm. Anh thấy ông quen thân và gần gũi, tựa như ông là người thân của anh lâu ngày gặp lại.

– Hai người đến khu nhà mồ ấy làm gì? – Trao cho Sơn ly gừng nóng, ông từ hỏi bằng giọng gay gắt.

– Dạ... – Đưa tay gãi trán, Sơn ấp úng – Tụi cháu đến để tâm tình...

– Tâm tình. Hừ! – Ông từ bực bội – Hết chỗ cho các cô cậu tâm tình rồi sao chứ? Nhà mồ là nói yên nghỉ của người ta chứ có phải công viên đâu mà cứ đưa nhau đến làm cái chuyện mèo mả gà đồng ấy. Cả năm nay vắng bóng nay lại bắt đầu tái diễn rồi.

– Ông từ à, đừng trách cậu ấy! – Hải nãy giờ lo săn sóc cho Nga giờ mới lên tiếng đỡ cho Sơn – Tại cậu ấy đi xa mới về nên không biết. Ông có nhận ra không, thằng Sơn "gồ" đó.

– Sơn gồ nào? – Đôi mày ông từ nhíu lại – Có phải thằng Sơn ngày xưa hay ăn trộm ổi hay không?

– Dạ đúng. – Sơn gật đầu – Cháu đây.

– Mày đi đâu vắng bóng mấy năm nay?

Giọng ông dịu đi một chút. Sơn nắm tay ông thân mật :

– Dạ, cháu lên Sài Gòn học. Ra trường rồi tìm được việc làm ở trên ấy nên ít về. Nga là người yêu của cháu.

– Ừ! – Ông lại hướng mắt về phía Nga – Coi cũng được đấy. Nhưng tụi mày mai mốt có tâm sự gì thì tìm chỗ khác mà tâm sự. Đừng đến đây, có ngày chết không kịp ngáp.

– Dạ, con biết rồi. – Sơn gật đầu nhanh, không cần ông nói anh cũng chẳng bao giờ dám đặt chân vào khu nhà mồ đầy ma đó.

– Sơn, cậu có biết mình vừa gặp ai trong khu nhà mồ không? – Hải chợt lên tiếng.

Sơn nhẹ rùng mình :

– Thì ma chứ còn ai.

– Nhưng cậu có biết con ma ấy là ai không? – Hải lại hỏi.

Sơn tròn đôi mắt :

– Làm sao tớ biết mà cậu hỏi. Cứ như con ma ấy quen với mình vậy.

– Quen thật đấy. – Hải gật đầu – Không chỉ quen mà còn thân với cậu nữa.

– Ê, đừng có giỡn nha! – Sơn rùng mình la lớn – Tao mà có quen với con ma ấy à?

– Cậu có nhớ Nhị không? – Hải không quan tâm đến sự bất bình của bạn.

Sơn nhíu mày cố nhớ :

– Nhị nào? Có phải thằng Nhị cặp bài trùng với mình không?

– Con ma đó chính là thằng Nhị đó. – Hải trả lời Sơn.

– Cái gì? – Sơn như bật lên khỏi ghế – Con ma là thằng Nhị ư? Tao không tin!

– Cậu phải tin. – Hải thở ra một hơi dài – Đó là sự thật. Nếu cậu muốn nghe tôi sẽ kể, cái chết của thằng Nhị thật thương tâm. Nói rồi không cho Sơn đồng ý, Hải bắt đầu :

Đêm nay trời không trăng như thường lệ, Nhị rủ Út Lài vào mả ông Hội đồng tâm sự.

Nói ra có vẻ khó tin, nhưng sự thật ở cái vùng quê này, đầu trên xóm dưới, chỉ có ngôi nhà mồ của ông Hội đồng là địa điểm lý tưởng, thích hợp cho các đôi nhân tình hò hẹn nhất thôi. Vì ngoài sự vắng vẻ, ít bị người dòm ngó. Nơi đây còn cao ráo, sạch sẽ và vô cùng thoáng mát. Chẳng thua kém các công viên trên thị trấn chút nào. Nên nếu đêm nào không tranh thủ giành phần trước, sẽ mất chỗ ngay.

Nhị là người xóm trên, Út Lài là người xóm dưới. Hai người yêu nhau cũng lâu rồi. Nhưng ngặt nỗi, gia đình Nhị không bước tới. Chẳng phải họ kén cá chọn canh gì. Út Lài vốn là cô gái ngoan, rất xinh đẹp, giỏi giang. Gia đình cũng thuộc hàng khá giả. Còn ngần ngừ chẳng qua, gia đình Nhị ngại cho sức khỏe của Lài. Cô bệnh tim. Mà theo y học, bệnh tim khó sinh đẻ lắm. Trong lúc Nhị là con trai một, là cháu đích tôn. Tổ tiên dòng họ ba đời chỉ trông vào một mình anh. Ai cũng mong anh có con đàn cháu đống để lo bề hương hỏa và thừa kế hàng chục mẫu ruộng cò bay thẳng cánh.

– Ui da! – Đang đi, Lài bóng vấp phải cái rễ cây ngã chúi. Nhị vội đưa tay đỡ lấy.

– Lài vấp rễ cây à? Để anh bấm đèn pin cho em đi cho dễ nhé?

– Đừng anh! – Lài níu tay Nhị – Ánh đèn sẽ làm người ta chú ý.

– Tội cho em quá! – Nhị cố nén tiếng thở dài, vòng tay sang người Lài trìu mến – Đi sát vào người anh nè. Có lỡ té anh níu lại.

– Dạ!

Gật đầu, Lài ngoan ngoãn nép sát vào người Nhị. Hôm qua mưa to, con đường lầy lội, níu bước chân đôi bạn nghe nhóp nhép, hòa lẫn tiếng ếch nhái kêu, tạo thành một âm thanh nghe buồn cười.

– Mỗi lần gặp nhau cứ lén lút như ăn trộm thế này, em thấy tủi thân quá! – Giọng Lài buồn bã.

– Anh cũng vậy! – Bàn tay Nhị nhẹ siết lấy tay Lài ­ Nhưng biết làm sao? Tại mẹ anh khó mà cũng tại anh yêu em quá. Ngày nào không gặp được em là ngày đó ăn không ngon, ngủ không yên.

Trời tối quá, Lài chỉ có thể thấy được đôi mắt Nhị sáng rực lên, ươn ướt. Cô biết là anh nói thật. Bởi... cô cũng có khác gì anh. Yêu anh lắm, nhớ anh lắm. Đã biết cứ lén lút hẹn hò là sai trái, mà không tài nào cưỡng lại lòng mình.

Đã đến mả ông Hội đồng, đôi bạn trẻ dừng chân. Nhị mò mẫm mở chốt cửa ngoài. Nơi đây đã quá quen thuộc với anh rồi. Nhắm mắt lại Nhị vẫn có thể đi thẳng đến khu nhà mồ không sợ lạc. Dù ngôi nhà được xây dựng trên một ngôi đất vô cùng rộng lớn, dù ngôi nhà mồ có đến những mười ngôi mộ, Nhị vẫn không nghe lạnh sống lưng. Anh chỉ cảm thấy buồn cười, thấy tội nghiệp cho ông từ giữ nhà mồ thôi. Hàng trăm, hàng chục lần thay ổ khóa rồi. Vậy mà lần nào ổ khóa dù chắc đến đâu cũng không tồn tại quá ba ngày. Cũng đều bị đám nhân tình phá hỏng. Bản thân anh nếu như nhớ không lầm thì cũng phá hư bốn hay năm ổ khóa gì rồi. Thế mới biết khi yêu không một trở lực gì ngăn cản nổi.

– Xong chưa anh? – Thấy Nhị lò mò bên then mở cửa lâu quá, Út Lài lên tiếng hỏi.

– À, xong rồi! – Nhị quay đầu lại, cặp tay Lài chậm rãi bước lên hàng sỏi trải dài. Ngọn đèn vàng giữa khu mộ tỏa ra một luồng ánh sáng tù mù, heo hắt đủ cho Nhị nhận ra mặt của Lài hôm này nhợt nhạt, xanh xao một cách khác thường.

– Em không khỏe trong người sao? – Nhị lo lắng hỏi.

– Không có. – Lắc đầu, Lài nhẹ nhàng đặt chân lên bậc tam cấp đầu tiên. Cúi nhìn xuống lớp đá mài trắng tinh bị đôi chân đầy bùn của mình vấy bẩn, cô nói với cảm giác của một người có lỗi :

– Nơi người ta yên nghỉ mà tụi mình cứ đến để yêu nhau. Em thấy thật không đúng chút nào.

– Tưởng chuyện gì. – Nhị bật cười, đưa Lài bước sâu vào trong mộ. Dìu cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh ngôi mộ được xây bằng đá hoa cương thật đẹp, anh nói bằng một giọng trầm ấm :

– Em không phải lo đâu! Họ chết cả rồi biết gì mà đúng với không đúng chứ?

– Anh đừng nói vậy! – Lài đưa mắt nhìn vào khung ảnh một người đã khuất. Người dẫu chết rồi, linh hồn vẫn còn tồn tại.

– Nhảm nhí! – Nhị lại bật cười – Anh không tin người ta có linh hồn đâu. Mà dù có linh hồn đi chăng nữa, những người nơi đây đều đã đi đầu thai cả. Em đừng quên, những ngôi mộ này lớn tuổi hơn chúng ta nữa đấy.

Nhị không nói sai, Lài biết rõ ngôi mộ này có rất lâu rồi. Nghe nội kể lại, ông Hội đồng được chôn ở đây, ngày xưa rất độc ác. Bóc lột tá điền một cách rất dã man. Ông còn giết người nữa.

– Mà thôi, dẹp hết chuyện ma quái lại một bên. – Nhị chợt cất lời, cắt ngang dòng suy nghĩ của Lài – Cho anh hôn em một cái, nhớ gần chết luôn, vậy mà nãy giờ em có nói chuyện gì đâu.

Nói rồi, Nhị đưa tay vén mớ tóc dài của Lài ra sau rồi đặt ngay một nụ hôn lên đôi má thật ngọt.

– Đừng anh. – Lài chợt né đầu làm nụ hôn của Nhị trượt xuống cổ.

– Lài, em sao vậy? – Cảm thấy bất ngờ, Nhị ngẩn người ra ngơ ngác – Giận anh à?

– Không có! – Đôi rèm mi cụp xuống, Lài như có ý nén lòng nhưng không được. Bờ vai cứ run lên, và nước mắt cứ tuôn tràn như suối.

– Lài, có chuyện gì? Sao em lại khóc?

Ôm lấy vai Lài, Nhị lo lắng hỏi.

– Anh Nhị ơi, em lo quá! – Gục xuống vai Nhị, Lài nức nở – Đừng giấu em nữa, em đã biết hết rồi. Hôm qua, thím Tám có sang nhà em bảo ba mẹ anh đã quyết định cưới chị Lý cho anh. Có phải không?

– Phải! – Bàn tay Nhị khẽ khàng vuốt lên mái tóc dài trên lưng Lài – Ba mẹ anh đã quyết định thế. Nhưng em đừng lo lắng quá. Anh nhất quyết chống đối tới cùng. Trọn đời này anh chỉ yêu có em thôi.

– Thật không anh? – Lài ngước đôi mắt nhìn Nhị đầy hy vọng. Nhị nhẹ gật đầu.

– Thật! Anh sẽ không thay lòng đổi dạ. Nhất định thuyết phục cha mẹ cưới em cho bằng được. Còn em, có đồng ý đợi anh hay một ngày không xa lắm sẽ vâng lời mẹ lấy chồng, bỏ mặc anh.

– Không có đâu. – Lài vòng tay quanh cổ Nhị – Em sẽ chờ anh, sẽ không lấy chồng. Thật đấy, xin thề có trời đất vĩnh viễn yêu anh. Không chỉ đời này, kiếp này. Chết rồi oan hồn cũng không tan, nguyện quấn quýt bên anh mãi.

– Đừng nói bậy thế! Anh tin rồi! – Yêu thương, Nhị đặt một nụ hôn xuống đôi môi Lài. Cô lim dim mắt, ôm chặt cổ anh tận hưởng. Giây lâu, chợt mở bừng mắt dậy, lo lắng hỏi :

– Nhị ơi, em yêu anh lắm. Nếu anh phụ em, em sẽ chết, sẽ không sống nổi đâu!

– Anh không cho em nói bậy đâu. – Đặt một ngón tay xuống môi Lài, Nhị nghiêm giọng – Làm sao anh có thể phụ em cho được. Em là người con gái đầu tiên trong cuộc đời anh. Anh yêu em nhất trên đời. Anh không tin vào chuyện thề nguyền đâu. Anh chỉ có thể nói với em rằng: "Nếu em chết đi, anh sẽ không sống một mình. Sẽ chết theo em cho có đôi có bạn".

– Anh đừng gạt em ở nhé! – Giọng Lài run run đầy xúc cảm.

– Không bao giờ! – Nhị đưa một ngón tay lên cho Lài ngoéo vào như những lần muốn chứng thật lời mình nói – Đã tin anh chưa hả?

– Đã tin rồi. – Lài mỉm cười, gật đầu nghe hạnh phúc ngập lòng. Nép sát mặt mình vào ngực Nhị, nghe mùi mồ hôi anh mằn mặn thân thương, Lài bỗng cò một quyết định vội vàng – Nhị ơi, yêu em đi! Từ phút này chúng mình muốn thuộc về nhau vĩnh viễn.

– Thuộc về nhau vĩnh viễn ư? – Nhị cất lời thảng thốt – Chúng ta vẫn chưa cưới nhau mà em vội vàng chi thế?

– Em cũng không biết nữa? Đôi mắt Lài chớp chớp lung linh. – Em chỉ thấy yêu anh mà không có cách nào bày tỏ cả. Em muốn thuộc về anh. Nhị ơi, em hư hỏng, em đáng khinh quá phải không?

– Không đâu! – Nhị ôm chặt Lài vào sát lòng mình ­ Em đáng yêu hơn lúc nào hết.

– Vậy thì cho em đi anh. – Lài cất giọng van nài. Đôi mắt cô nhìn anh như ngây dại. Bối rối quá nhưng không đành để Lài phải tủi thân. Nhị đưa tay lần cởi chiếc cúc áo của Lài ra, một tiếng sấm bỗng vang lên, rồi trời mưa như trút nước. Ôm chặt Lài vào giữa vòng tay, cùng Lài hòa tan thành một mà lòng Nhị nghe thắc thỏm. Một điều bất ổn dường như theo tiếng sấm kia cứ ám ảnh anh ngày càng lớn dần lên.

– Thưa bác, cho cháu hỏi Lài có nhà không ạ? Cháu muốn được gặp em Lài một lúc.

Đang đều tay quét gom những chiếc lá rụng trước sân thành một đống, chợt nghe có tiếng ai hỏi phía sau, bà Thân quay đầu lại, gương mặt bà vụt sa sầm khi nhận ra kẻ vừa mới hỏi mình là thằng Nhị.

– Không biết.

Bà quay mặt đi. Nhị bước vòng theo ra trước mặt bà :

– Xin bác cho con gặp em Lài có chuyện cần gấp lắm ạ.

Vẻ mặt thành khẩn, đầy tội nghiệp của Nhị làm bà thoáng động lòng. Cách đây có đâu xa, bà còn thương nó như con ruột của mình.

– Mày tìm nó làm gì? – Tia mắt dịu đi một chút, giọng bà vẫn lạnh lùng – Chẳng phải hai đứa đã chia tay nhau hơn bốn tháng rồi? Về đi, đừng làm nó khổ nữa. Nó đi vắng rồi, mà dù có ở nhà tao cũng không cho mày gặp nó đâu, ổng đã cấm...

– Con không về được. – Nhị lắc đầu, nắm lấy tay bà nài nỉ – Em Lài đi đâu, bác phải cho con gặp em Lài, có chuyện cần gấp lắm. – Ngưng một chút, thấy bà vẫn lặng yên, Nhị đành thú thật – Con và em Lài vẫn yêu nhau, chỉ giả bộ chia tay qua mắt người lớn thôi. Bốn tháng qua tụi con vẫn lén lút gặp nhau.

– Hả? – Như giật mình bà quay nhanh đầu lại, chưa kịp nói gì thì phía sau tấm phên tre đã vang lên giọng một người đàn ông ồm ồm giận dữ :

– Cái gì? Mày và con Lài vẫn thường lén lút gặp nhau ư? Hừ! Con Lài này hư thật, một lát biết tay tao!

Một người đàn ông trạc tuổi năm mươi bước ra sau câu nói. Ông ở trần, vận chiếc quần đùi trắng, trông tráng kiện và uy nghi lắm.

– Dạ, cháu chào bác ạ.

Vừa nhìn thấy ông, Nhị vội bước lên trước mặt ông khoanh tay cúi đầu lễ phép.

– Xin bác đừng giận cũng đừng mắng em Lài. Chẳng phải tụi con cố tình giấu diếm qua mặt bác mà...

– Chẳng mà gì hết. – Hét lớn cắt ngang lời Nhị, ông chỉ thẳng tay ra cửa – Cậu về ngay, chuyện nhà tôi không mươn cậu xía vào. Lài là con tôi, tự tối biết cách dạy nó.

– Con không thể về khi chưa gặp em Lài. – Nhị vẫn đứng yên, mắt nhìn ông tha thiết – Xin bác nghĩ tình, cho con gặp em Lài.

– Gặp con Lài? Cậu muốn gặp nó làm gì? – Đôi mắt ông rực lửa – Làm khổ nó bao nhiêu đó chưa đủ sao? Có phải cậu muốn gặp nó để báo tin ngày thành hôn của mình. – Nói đến đây cơn giận chợt bùng lên, ông rút nhanh cây rựa cài trong vách – Cậu cút mau, bằng không tôi sẽ chặt cậu làm ba khúc đó.

– Nhị về đi! – Biết tính chồng, bà Thân kéo tay Nhị ra cổng – Con Lài không có ở nhà đâu, mà có thật mày sắp cưới vợ không hả? – Khuất ông sau cây cột, bà hạ giọng rung rung hỏi Nhị.

Nhị chậm rãi gật đầu. Bà bật khóc lên :

– Khốn khổ con tôi!

– Thưa bác. – Nhị bóp tay bà – Không phải vậy đâu. Con không phản bội Lài. Con yêu em Lài. Con chỉ lấy vợ cho vui lòng ba mẹ. Mẹ con đã hứa sẽ cho con cưới cả Lài nếu con bằng lòng lấy Lý. Bác à, con nói thật con chỉ sống với Lý vì trách nhiệm, trọn đời con chỉ yêu thương một mình Lài.

– Mày về đi. – Bà hờn dỗi đẩy tay Nhị ra xa – Đừng gặp con Lài nữa.

– Không! – Nhị ôm lấy bà – Con không thể về khi chưa nói ra cho Lài hiểu.

– Tao không cần nó hiểu. Mày cút khỏi nhà tao ngay lập tức. – Ông Thân lại hiện ra sau liếp cửa, tay lăm lăm cây rựa – Bằng không tao chém bay đầu.

– Cha, mẹ, anh Nhị, có chuyện gì vậy anh? – Lài vừa đi vớt bèo về tới, thấy cha tay lăm lăm cây rựa dọa chém Nhị, cô sợ quá chạy đến ôm tay cha chặt cứng – Đừng ba, đừng chém anh Nhị, tại con yêu anh ấy thôi.

Rồi cô quay sang Nhị la to :

– Anh chạy đi, ba em dữ lắm, ông ấy sẽ chém anh thật đó.

– Trời ơi! – Bà Thân giậm chân khóc lóc – Nhị mày có đi chưa? Hay chờ tao cắn lưỡi chết cho mày vừa lòng hả?

Biết có ở lại cũng chẳng thể nào gặp được Lài trong tình cảnh thế này, Nhị đành phải chạy đi, trước khi hét lớn cho Lài nghe.

– Lài, tối này anh chờ em ở điểm hẹn cũ. Anh có chuyện muốn nói với em.

Trời đất ơi! Nghe Nhị hẹn mà tay chân Lài rã rời. Anh điên rồi sao mà dám đến đây, đường đường trước mặt cha mẹ cô mà hẹn chứ? Anh có biết từ hôm nghe ông Năm Truyện bảo gia đình anh chê cô bị bệnh tim. Ba đã nổi giận đùng đùng, cấm không cho cô qua lại với anh không? Cô đã ăn hơn một chục roi mây vào mông rồi. Anh muốn cô bị đòn hay sao nữa chứ?

– Lài, vô tao biểu! – Đang nghĩ ngợi bỗng Lài giật mình nghe tiếng cha gọi lớn.

– Dạ! – Biết chắc điều gì chờ mình trước phản gỗ kia, Lài đưa mắt nhìn mẹ cô rồi len lén bước vào. Quả không sai, cha đang ngồi trên phản, tay cầm ngọn roi mây giận dữ.

– Cúi xuống nghe tao nói.

– Dạ..

Bỏ đôi guốc ra, Lài lập cập nằm dài xuống phản, cây roi ông chỉ nhịp lên phản mà Lài nghe sống lưng mình lạnh toát :

– Tại sao ba đã cấm mà con cứ lén lút quan hệ với thằng Nhị hả?

– Dạ, tại con thương anh ấy. – Lài không dối lòng.

Ông Thân nổi giận bừng bừng, ngọn roi trên tay ông đập xuống người Lài.

– Thương. Đồ cứng đầu, mất nết. Đồ con gái hư, tao giết mày chết.

Chát! Chát!

Những ngọn roi đập lên lưng, lên vai đau điếng. Lài cắn chặt răng chịu đựng. Nước mắt tuôn dầm như mưa trên mặt. Cô không trách cha. Chỉ trách số phận thôi. Sao nghiệt ngã bắt cô mang chứng bệnh tim bất trị để tình yêu của cô và Nhị không được suôn sẽ như mọi người.

– Thôi đủ rồi, ông định giết con sao chứ? – Như không còn chịu nổi, bà Thân nhảy vào giật roi và khóc – Trời ơi, sao số con tôi khổ như vầy nè.

– Khổ cái gì? – Ông Thân giật mạnh roi, nạt lớn. – Tất cả cũng tại bà thôi. Mau vào thay đồ, theo tôi qua nhà anh Năm. Tôi quyết định gả nó cho thằng Sang rồi. Bà đừng hòng năn nỉ.

– Không! – Chống tay ngồi dậy, Lài khóc lớn – Ba đừng ép con. Con không lấy anh Sang đâu. Con chỉ yêu anh Nhị thôi.

– Câm ngay con kia! – Cây roi trong tay ông chỉ thẳng vào mặt Lài – Không khóc lóc kêu than gì cả. Tao quyết định rồi, đám cưới của mày sẽ trước đám cưới của thằng Nhị một ngày.

– Đám cưới anh Nhị? – Út Lài tròn đôi mắt, sững sờ – Anh Nhị lấy vợ thật sao?

– Đúng là con ngu ngốc. – Ông Thân bật cười – Trách sao không bị lừa chứ? Một tuần nữa thằng Nhị sẽ cưới con Lý rồi. Đầu trên xóm dưới đồn ầm cả lên, ai cũng biết chỉ có nó là ngơ ngơ ngác ngác.

Ba và mẹ đã đi rồi, chỉ còn lại một mình Lài trên tấm phản với tấm thân đầy vết roi và trái tim đau thắt nghẹn. Nhị đi lấy vợ, anh không nhớ gì đến lời thề hẹn với mình sao? Cả đứa con của anh trong bụng, anh cũng không màng đến nữa. Trời ơi, sao mà đau khổ quá! Ba lại bắt cô phải lấy anh Sang nữa. Cô biết phải làm gì?

Lý, một lát nếu có ai gõ cửa thì có đừng mở nghe.

Đám cưới vừa xong, Nhị lẻn ngay vào phòng và khóa trái cửa lại. Bên ngoài tiệc vẫn chưa tan. Đám bạn cười ầm lên trêu anh sao non thế. Song, sự thật không phải như vậy. Cô dâu Lý đang rưng rưng nắm lấy tay anh.

– Anh đến gặp chị Lài à?

Gật đầu, Nhị bước đến mở tung cửa sổ. Dợm phóng mình đi rồi thế như vậy là bất nhân cùng Lý quá, anh quay lại nói như thể thanh minh.

– Tôi biết bỏ đi trong đêm tân hôn như thế này là không đúng. Nhưng tôi nóng ruột quá đã một tuần tôi không gặp Lài, Lý thông cảm.

– Em biết. – Lý đưa tay lau mắt – Tuy mang tiếng được cưới hỏi chính thức nhưng so với chị Lài trong anh, em chẳng là gì cả. Một mai anh cưới chị Lài về, em sẽ phải cô đơn, chịu cảnh một mình cô độc. Anh suốt ngày sẽ ở bên phòng chị Lài, không thèm dòm ngó đến phòng của em.

– Không có đâu. – Nhị lắc đầu – Lý đừng lo. Tôi đã hứa với má tôi rồi, sẽ rất công bằng. Lài một đêm, Lý một đêm. Bây giờ Lý cho tôi gặp Lài một chút nhe. Tôi trở về liền. Rồi tôi sẽ làm đúng nghĩa vụ một người chồng. Thật đó, Lý tin tôi đi.

Không tin cũng không được. Lý biết như vậy. Ai bảo cô yêu Nhị quá làm gì? Cha mẹ bạn bè ai cũng khuyên cô cả. Cảnh chồng chung khổ lắm. Đã biết trước sao vẫn làm con thiêu thân lao đầu vào?

– Tôi đi nhé? – Không thấy cô gật đầu, Nhị lên tiếng nhắc.

Lý giật mình ngước mắt lên. Cô nói :

– Anh Nhị hôn em một cái rồi đi.

– Hả? – Nhị như bị giật mình, anh đưa mắt nhìn xuống chiếc đồng hồ trên cườm tay thoái thoát – Trễ quá rồi, một lát về có được không?

– Cũng được. – Lý gật đầu nghe tim đau nhói. Nhị chống tay lên thành cửa nhảy ra ngoài.

Còn lại một mình, bỗng nhiên Lý nghe sờ sợ. Cô đứng dậy, đến bên khung cửa nhìn theo bóng Nhị. Màn trời trước mắt cô tối đen. Đưa tay lên môi, Lý linh cảm nụ hôn của mình chờ đợi sẽ không bao giờ có được. Nhị như cánh chim trời, có khi nào anh sẽ theo Lài bay biến đi không?

Bàn chân chưa chạm đất, Nhị lập tức chạy như bay đến mả ông Hội đồng. Tờ giấy hẹn của Lài như cục than hồng cháy bỏng trong túi áo anh từ trưa đến giờ. Khuya lắm rồi, liệu Lài có kiên nhẫn chờ anh nữa hay đã hờn dỗi bỏ về rồi. Đừng nghe Lài, hãy chờ anh đến, hãy nghe anh một lời giải thích.

Hôm đó, có một đêm dài ròng rã chờ em ở mả ông Hội đồng không được. Anh đã tìm mọi cách tiếp cận em. Nhưng lần nào anh cũng bị ba em dùng rựa dọa chém và đuổi về. Tội nghiệp em, không nghe anh giải thích chắc là hoang mang đau khổ lắm.

Hàng cây hai bên đường quất vào mặt thật đau, nhưng Nhị không còn cảm giác gì. Bàn chân anh lướt như bay trên đám bùn trơn trợt. Trời tối quá, khiến anh mấy lần vấp rễ cây suýt ngã rồi.

Ngôi nhà mồ đã hiện ra mờ mờ trước mặt. Tim Nhị như mọc cánh, lòng anh nôn nao nhung nhớ. Một tuần hơn không được hôn Lài rồi. Lài ơi, em có biết anh nhận lời cười Lý là vì tương lai của hai chúng ta không?

Anh đã nghĩ hết cách rồi. Ngoài cách ấy ra, không còn cách nào để chọn đâu. Em và anh đều là con một của gia đình, đâu thể bỏ nhà trốn đi làm kẻ bất hiếu được. Mẹ nhất định không cưới em. Nội lại đang bệnh ngặt, anh đành lòng nào để bà ra đi với tâm nguyện chưa tròn.

Mẹ cho anh cưới em với điều kiện anh phải cưới Lý về làm vợ. Bà không cần anh yêu thương Lý, chỉ cần anh làm cho cô ta sinh thật nhiều con để nối dõi tông đường. Lài ơi, hoàn cảnh khắc nghiệt quá, túng thế chúng ta phải tùng quyền thôi. Phải chia rẽ anh cùng một người con gái khác, anh biết em đau khổ lắm. Nhưng thà vậy mà được bên nhau còn hơn phải xa cách nhau trọn đời. Ba em lại gả em cho thằng Sang nữa, anh không thể bó gối đợi chờ để mất em đâu.

Đã đến ngôi nhà mồ. Nhị đưa tay tìm then cửa. Tim anh như thót lại khi sờ phải cái ống khóa to đùng. Lài không đến ư? Không! Anh không tin, cô đã hẹn rõ là sẽ chờ anh đến để gặp anh lần cuối kia mà.

Lần cuối! Sống lưng Nhị bỗng dưng lạnh toát. Mồ hôi tuôn thành dòng khắp thái dương. Trời ơi sao anh ngu ngốc quá. Lài bảo muốn gặp anh lần cuối là nghĩa gì... không lẽ...

Không! Đừng dại dột Lài ơi! Nhị bật khóc thành lời, bàn tay anh cuống quýt bên ổ khóa. Vô vọng thôi, Lài hay ai đã cố tình chọn một ổ khóa thật dầy, thật chắc.

Quẹt nước mắt, Nhị bám tay lên thành cửa leo vào. Tiếng đồn ông Hội đồng rất linh đã xô té mấy kẻ to gan gãy chân, giập mật rồi. Nhưng Nhị không còn sợ nữa, anh leo thoăn thoắt như một chú thạch sùng. Chẳng mấy chốc đã vào được bên trong.

– Lài ơi! – Nhị chạy như bay vào khu mộ, hy vọng sẽ nhìn thấy Lài đang trên ghế đá để chờ mình. – Lài ơi, em cứ hờn trách, cứ khóc hết nước mắt đi. Anh sẽ năn nỉ em đến sáng. Không, đến hết cả đời này.

– Lài! – Bước chân bỗng dừng lại giữa chừng. Nhị kêu lớn thất thanh trong kinh hoàng khủng khiếp – Không, điều ấy không thể xảy ra. Lài của anh không thể thắt cổ chết trong giữa khu mộ được.

Nhưng sự thật là sự thật rồi, Nhị không thể nào phủ nhận, cũng không thể nào làm khác được. Dù anh có quýnh quáng tháo Lài ra khỏi thòng lọng, dù anh có thổi nàng hàng trăm hàng ngàn nụ hơi nhân tạo, cố ôm cô vào lòng đến chết cô cũng không sống lại.

Lài đã chết thật rồi. Chết vì một sợi dây thòng lọng hồng được bện bằng khúc vải lụa hôm nào anh tặng cho Lài, bảo cô để dành may áo cưới. Trời ơi, đau đớn quá, Lài chết với mối hận tình, với nỗi đau ngờ rằng bị phụ bạc.

Lài ơi! Nhị nhẹ nhàng đưa tay vuốt lên đôi mắt của Lài. Đôi mắt chắc đã khóc nhiều trong suốt tuần qua, trước khi đi đến quyết định cuối cùng này nên mới sưng húp thế này. Lài ơi, sao em không chờ anh tới. Có phải em hận anh lắm không? Nhẹ đặt Lài nằm tựa vào lòng mình, Nhị đưa tay vuốt lên mái tóc dài óng ả. Không, anh không tin Lài đã chết đâu, Lài chỉ ngủ thôi. Hãy xem kìa, Lài đẹp biết bao, cô đang hạnh phúc chờ anh tới. Không thì cô đâu vận bộ đồ trắng đẹp như thế này. Cô lại còn cười nữa. Hạnh phúc lắm phải không Lài, chúng mình sắp được bên nhau rồi. Cho anh hôn em một cái.

Đôi má Nhị tựa vào má Lài trìu mến. Nước mắt của anh trải dài trên mặt của Lài. Như cuồng dại, anh cúi hôn lên đôi môi Lài ngấu nghiến. Đôi môi lạnh ngắt giá băng, vô ý thức, nhưng Nhị lại thấy tuyệt vời ngây ngất hơn bao giờ hết. Để một nụ hôn, một nụ hôn... anh hết hôn rồi lại khóc, hết khóc rồi lại hôn... Bên ngoài tiếng sấm vang rền, trời lại đổ cơn mưa lớn. Tiếng cú nghe thê lương quá.

* * * 

– Nhị ơi, nghe lời má, tỉnh lại đi, con Lài nó chết rồi.

– Trả lại Lài cho bác, Nhị ơi. Con ôm nó như vậy mãi chắng ích gì đâu. Nó chết rồi, đâu thể nào sống lại.

Mặc cho bên ngoài vòng người vây kín mình chặt như nêm, mặc cho mẹ của mình và mẹ của Lài khóc thảm thiết. Nhị vẫn không có phản ứng gì. Đôi mắt ngây dại cứ đắm đuối nhìn Lài đầy thương cảm.

Ba ngày rồi, từ sau cái chết của Lài, Nhị như hóa điên. Không tin Lài đã chết, anh quyết không cho ai chạm đến Lài. Từ sáng đến chiều, hết khóc rồi cười, anh quấn quýt lo lắng cho Lài như thể cô đã là vợ của anh rồi vậy.

Lăm lăm cây mã tấu trên tay, Nhị hung hãn dọa sẽ chém hết những ai đến gần toan cướp thi thể của Lài. Đôi mắt anh ngầu đục, dữ dằn như sư tử bị thương, nên đã ba ngày rồi không một ai dám đến gần giành Lài từ tay anh cả. Hết cách rồi sao? Mọi người nhìn nhau bất lực. Thi thể của Lài đã bắt đầu trương lên, bốc mùi hôi thối.

– Lài ơi, sao em ngủ lâu quá vậy? – Nhị lại lên tiếng trìu mến hỏi, như giữa ngôi nhà mồ chỉ có anh với Lài thôi – À! Anh biết rồi, em có thai nên mệt chứ gì. Em cứ ngủ nữa đi, để anh đi hái trái xoài xanh về cho em ăn nhé? Khoan đã, trước khi đi, cho anh hôn em một đi nào...

Đã chứng kiến nhiều lần nên việc Nhị cúi hôn vào môi xác chết không còn làm cho mọi người kinh hoàng hoảng sợ như lần đầu nữa. Họ chỉ cảm thấy xúc động bồi hồi, thương cho cuộc tình của đôi bạn trẻ. Nhất là Lý, cô cứ khóc rấm rức suốt mấy ngày nay. Cô cho rằng tại mình mà ra nông nỗi.

– Anh Nhị ơi, anh về đi, tỉnh lại đi! – Không còn chịu nổi, Lý gào to – Chị Lài chết rồi, anh đừng tự giày vò bản thân mình nữa.

– Cái gì? – Nhị ngẩng đầu lên hung dữ. Cây mã tấu trong tay anh chĩa về phía đám đông :

– Đứa nào dám bảo Lài của tao chết? Dám giật Lài của tao hả? Tao chém bay đầu, chém bay đầu!

Nói rồi như bị kích động, Nhị vung mạnh cây mã tấu chém vào đám cây kiểng trồng quanh ngôi nhà mồ. Còn chưa hả, anh hét to vung mã tấu chém luôn xuống đám mộ được xây bằng đá hoa cương, tóe lửa.

– Đây, mời các anh vào giải quyết cho. Đã ba ngày rồi tên khùng này cứ giữ lấy xác con gái tôi...

Giữa những tiếng khóc sụt sùi bỗng vang lên giọng của ông Thân cương quyết. Giật mình quay đầu lại mọi người ngơ ngác nhận ra sau lưng ông là một nhóm cảnh sát vũ trang súng đạn. Thì ra, nóng lòng con, ông đã lên tỉnh mời bằng được đội cảnh sát đặc nhiệm về giúp đỡ.

Vừa nhìn qua, viên đội trưởng đã nắm rõ tình hình. Anh ra lệnh cho lực lượng giải tán đám dân quê đang tò mò tụ tập ngày càng đông trước khu nhà mồ. Mọi người bị đuổi tản ra xa, nhưng chẳng ai về cả. Họ tụm thành từng nhóm, trèo lên các gò cao nhìn đám cảnh sát bao vây khu nhà mồ. Lòng nơm nớp thầm lo. Liệu họ có bắn chết Nhị không nhỉ?

– Anh Nhị, yêu cầu anh trao trả xác cô Lài. Bằng không chúng tôi buộc lòng dùng vũ lực. – Chiếc loa trên tay một anh cảnh sát gọi lớn lời cảnh cáo.

– Trao trả Lài ư? – Nhị như ngơ ngẩn, rồi vùng đứng dậy hét to – Không, Lài chưa chết. Tao không cho kẻ nào cướp Lài của tao đâu. Lài cũng sẽ chẳng chịu đi đâu phải không Lài?

Một tay ôm chặt xác Lài, một tay Nhị lăm lăm cây mã tấu, mặt Nhị hầm hầm, như sẵn sàng chém chết ngày kẻ nào dám xông vào.

Biết thuyết phục không xong, anh đội trưởng hất mặt ra lệnh cho cả đội hành động. Men theo bờ tường họ lẳng lặng tiến vào. Rồi một anh cảnh sát bất thần nhảy từ trần nhà xuống. Bằng một thế võ đẹp mắt và vô cùng chính xác, anh đá tung cây mã tấu trên tay Nhị. Cùng lúc, ba anh cảnh sát nữa nhảy ập vào bẻ ngoặc tay Nhị lại, giằng lấy thi thể Lài.

Mọi việc diễn ra qua dễ dàng, thuận lợi. Đám dân quê đứng bên ngoài chưa kịp thở phào ra mừng rỡ đã nghe một viên cảnh sát hét thất thanh. Nhị đã vùng thoát khỏi sự kiềm tỏa của họ rồi. Và Nhị còn mang theo một con dao găm ở bên người, nên đám cảnh sát trở tay không kịp. Một viên cảnh sát đã bị Nhị đâm trúng bả vai, đang lảo đảo lui về sau mấy bước.

– Trả Lài lại cho tao!

Với sức lực cuối cùng của con sói bị dồn vào bước đường cùng, Nhị hất tung đám cảnh sát giành lại thi thể của Lài. Cuối cùng, viên đội trưởng đành phải rút khẩu súng ngắn bên người chĩa vào Nhị uy hiếp :

– Buông cô ấy ra, nếu không tôi sẽ bắn!

– Không! – Bên ngoài mẹ của Nhị gào to – Các ông không được bắn con tôi.

– Bà im đi! – Ông Thân trừng mắt hét nhỏ – Người ta chỉ dọa thôi, không bắn thật đâu mà sợ.

– Tôi nhắc lại, tôi sẽ đếm đến ba, nếu anh không buông cô Lài ra tôi sẽ bắn đó. Một...

Dù tin lời ông Thân rằng viên cảnh sát ấy chỉ dọa thôi, nhưng đám đông vẫn không khỏi lạnh mình kinh sợ, nghe tiếng khóa an toàn bật mở, mọi hơi thở dường như ngưng lại. Nhị dường như biết sợ, anh ta hạ ngọn mã tấu đang uy hiếp một viên cảnh sát xuống, quay đầu đưa mắt nhìn Lài lần cuối.

– Không! – Nhị đột nhiên hét lớn – Lài ơi, anh không cho bọn họ chia cắt chúng mình. Anh theo em đây!

Chưa kịp hết bàng hoàng vì tiếng hét thất thanh của Nhị, mọi người đã nhìn thấy ngọn dao trên tay Nhị cắm phập xuống tim mình. Một dòng máu phụt thẳng ra, tưới xuống người Lài.

Sự việc diễn ra qua bất ngờ, khiến anh đội trưởng dù đứng cạnh bên Nhị cũng không thể nào trở tay kịp. Chỉ còn biết ngây người ra nhìn thân thể Nhị đổ ập xuống người Lài.

– Nhị! – Tung đám cảnh sát vây quanh con mình, bà Hai, mẹ của Nhị ào lên ôm lấy con khóc lớn – Trời ơi, Nhị con ơi, con đừng chết!

– Cấp cứu, cấp cứu đến mau... có người tự vận... – Hét to vào máy điện đàm, viên đội trưởng hy vọng làm được một việc gì đó an ủi người mẹ đang vật mình than khóc. Lưỡi dao đã cắm thẳng vào tim. Bằng kinh nghiệm của một người từng trải, anh biết Nhị đã chết ngay khi lưỡi dao cắm phập vào.

– Trời ơi... chuyện gì đã xảy ra thế này...

Nhóm cảnh sát đã khiêng được thi thể của Lài ra, nhưng bà Thân không còn lòng dạ nào để nhìn con. Bà la trời một tiếng rồi ngã vật ra sau bất tỉnh...

* * * * *

Cuối cùng mọi người cũng thuyết phục được ông từ đồng ý cho Lài và Nhị được an táng trong khu đất của nhà mồ ông Hội đồng. Hai ngôi mộ được xây cạnh nhau đúng như lời thề nguyền của hai kẻ yêu nhau. Sống làm chim liền cánh, chết làm cây liền cành, vĩnh viễn chẳng lìa xa.

Thời gian lặng lẽ trôi, nỗi đau mất con của hai bà mẹ cũng dần phai theo năm tháng. Mọi người ai cũng ngỡ câu chuyện tình bi thương của đôi uyên ương Lài – Nhị rồi cũng như bao câu chuyện khác dần bị quên lãng. Nhưng sự thật không phải vậy. Chỉ ba ngày sau, những người dân ở gần khu mộ đã xôn xao rồi một tin đồn rùng rợn. Rằng một lần, họ đã nhìn thấy Lài xõa tóc dài mặc nguyên bộ đồ lụa trắng đánh đu tòng teng trên ngọn liễu. Khi cười, khi khóc, tiếng cô ngân dài thảm thiết trong đêm.

Tiếp theo là vết máu của Nhị hôm nào làm loang đỏ trên nền đá hoa cương của ngôi nhà mồ. Ông từ đã nhiều lần gột rửa. Sạch lúc đó, rồi sáng hôm sau lại hiện lên với màu sắc đậm hơn, khủng khiếp hơn.

Những đôi tình nhân bạo gan đến khu nhà mồ tâm sự đều phải một phen kinh hồn vỡ mât. Không bị chọi đá đến bể đầu sứt trán, cũng bị Lài giấu mất áo quần. Cô tinh nghịch lắm. Cứ lựa lúc người ta hôn nhau là hiện lên, lè dài lưỡi nhát cho cô gái phải kinh hoàng bất tỉnh.

Ông từ cũng đã nhiều lần chính mắt mình trông thấy đôi hồn oan đó ngồi bên nhau tâm sự. Nhưng vốn là người từng trải, nhiều năm canh giữ nhà mồ nên ông không sợ. Bọn chúng cũng không làm phiền đến ông. Chỉ lang thang dạo chơi trong khu mộ làm khiếp vía kẻ yếu tim.

Tiếng đồn lan xa. Chẳng mấy chốc khu nhà mồ trở nên quạnh vắng. Không một đôi nhân tình nào dám bén mảng đến gần đây tâm sự. Trời chưa kịp tối nhưng người dân ở đây đã vội vàng đóng cửa. Và lẽ tất nhiên là chẳng một người nào dám đi ngang con đường này một mình trong đêm tối. Mọi người bảo với nhau rằng vì nợ tình chưa dứt nên oan hồn không tan.

* * * 

Hải kể xong câu chuyện đã lâu mà Sơn cứ ngồi yên bất động. Nỗi kinh hoàng sợ hãi đã qua, giờ đây trong anh tràn ngập tình thương với thằng bạn thân thời thơ dại. Nhị ơi, thì ra mày ra bộ xương khô lúc nãy đuổi theo tao. Có phải mày đã nhận ra tao là thằng bạn thân nhất đời này, nên muốn chạy theo tâm sự? Tại sao tao không biết con ma đó là mày. Nếu biết, tao sẽ chẳng hoảng sợ chạy đâu.

Tao chưa biết Lài, nhưng qua lời kể tao có cảm tình nhiều với cô bạn gái của mày. Thương hai đứa, tao lại giận cả hai đứa nữa. Sao mà nông nổi, mà tiêu cực thế? Thiếu gì cách giải quyết. Sao lại chọn cho mình cái chết bi thương như vậy? Giá lúc đó có tao ở đây. Tao sẽ cản, tao sẽ không cho chúng mày tính chuyện dại khờ như thế, Nhị ơi, mày có biết tao đã toan nhờ mày làm chú rể phụ cho tao và Nga trong ngày cưới hay không?

– Thôi, đừng buồn nữa Sơn à. Tại số thằng Nhị nó vậy rồi. – Đặt tay lên vai Sơn, Hải an ủi.

Còn chưa biết nói gì, anh đã nghe giọng Nga cất lên bùi ngùi đầy thương cảm. Thì ra cô đã tỉnh lại từ lâu, vô tình đã nghe hết câu chuyện do Hải kể.

– Anh Nhị chết như vậy chắc bây giờ má anh Nhị ân hận lắm. Phải chi bà bằng lòng cưới chị Lài, anh Nhị đâu có chết. Biết đâu bây giờ đã có cháu bồng rồi.

– Đúng vậy. – Hải gật đầu – Trong câu chuyện này, người ân hận nhất là má của Nhị. Nhất là khi biết được Lài đã mang thai hơn hai tháng. Bà như phát điên lên, giờ đây tối ngày bà chỉ biết giam mình vào nhà đọc kinh sám hối.

– Tội nghiệp cho bà quá. – Nga nhẹ thở dài – Thế mới biết có những sai lầm không thể nào chữa được.

– Em vừa mới tỉnh dậy, thôi đừng nói lung tung nữa. – Bước đến bên cạnh Nga, Sơn trìu mến – Hãy tịnh dưỡng, sáng sớm mai anh đưa em trở về thành phố.

– Trước khi về em muốn đốt cho anh Nhị và chị Lài nén nhang.

– Đừng nói bậy. – Ông từ đột nhiên cắt ngang lời Nga – Với người chết không hứa ẩu được đâu.

– Cháu không hứa ẩu. – Nga tròn mắt cãi. – Cháu thật sự muốn đốt nhang cho chị ấy.

– Ngày mai trước khi về anh sẽ đưa em ra thăm mộ Lài. – Sơn gật đầu, nắm tay Nga biểu lộ sự đồng tình.

Hải bèn chen vào :

– Nga thấy khỏe chưa? Nếu chưa khỏe hay nằm đây tịnh dưỡng. Còn nếu khóc muốn về nhà anh em tôi đưa cho một đoạn.

– Em khỏe, em khỏe rồi. – Nga bật ngồi dậy ngay làm ai cũng bật cười.

Sơn quay sang Hải :

– Phiền cậu và các anh vậy.

– Có gì đâu. – Hải cười vui vẻ.

Cả bọn tạm biệt ông từ rồi lục tục ra về. Trước khi bước đi, Sơn còn ngoái nhìn lại, thầm nói :

– Nhị ơi, tao về đây, tạm biệt mày.

Thấp thoáng sau lùm cây, dường như có một bóng trắng đôi mắt nhìn theo đầy lưu luyến.

4 0
Bitch_♕ | Chat Online Report
Anh này có vẻ thik đọc truyện kinh dị. Lướt trang cá nhân mà toàn thấy truyện ma. Mà mị sợ ma nhưng mị vx mún đọc. mỏi cả mắt! Hức Hức. :>>>
0 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

trần hạo thiên
Link | Report
2020-03-21 13:58:59
Chat Online
NGƯỜI CÕI ÂM

Tôi mệt nhoài, người cố nhổm dậy để kéo tấm chăn đắp lên đôi chân mình mặc cho đốt sống lưng kêu răn rắc. Tôi thích mùa đông mặc dù nó làm tôi đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. Ở Sài Gòn thật khó để có một mùa đông đúng nghĩa.

Cả tuần nay tôi đã ngủ vùi trên giường để mặc cho cả thế giới dưới chân sụp đổ, mặc cho ngoài kia 152 người khách Việt trốn mất tại Đài Loan, cả đoàn khách Việt bị đánh bom ở Ai Cập, áp thấp nhiệt đới đang đổ bộ, tiếng càm ràm của mẹ hay chỉ là tiếng kêu meo meo của con mèo đòi âu yếm.Bạn nhắn tin hỏi tôi nghĩ gì về những sự kiện đấy, tôi chỉ biết xem tin nhắn và tiếp tục hành trình vùi đầu vào giấc ngủ, biết nói gì hơn khi đầu tôi lúc này trống rỗng, trống rỗng thực sự.

***

Có những lúc tôi muốn biến mình thành người thực vật, chỉ việc nằm đó mà hít lấy hít để chút không khí còn sót lại trong căn nhà ọp ẹp, tồi tàn mà chúng tôi đang sinh sống. Tôi chán chường việc phải lau và hứng từng giọt nước mưa len lỏi qua mái nhà, chán chường với thảm cảnh nước ùa vào nhà, ngồi nheo nhóc như lũ ếch trên lá sen để mong chờ một giấc ngủ an yên. Tôi loay hoay không biết phải làm thế nào để xé tan cuộc sống hiện tại, bước sang một trang mới tốt đẹp hơn. Tôi cố gắng hết sức kiếm tiền từ những việc mình chẳng mặn mòi cho lắm. Không làm, không ưng thì đói, nhưng lao đầu vào thì liệu cuộc sống có khá khẩm hơn?  Tôi bất lực và vô dụng, tôi chỉ muốn nằm đó, tự tiêu hóa, ăn mòn bản thân và chết đi trong từng nhịp thở.

Chuông tin nhắn đến và một lần nữa, anh kéo tôi ra khỏi những cảm xúc nhớp nháp, đen đặc đang bủa vây. Nếu không nhìn điện thoại, tôi cũng chả biết lúc này mặt trời đã lên hay chưa, bởi lẽ căn phòng của tôi bốn bề là những bức tường hoen ố. Trận ngập lụt vửa rồi đã khiến những vôi rơi ra từng mảng trắng tinh như vỏ trứng vịt, nước rút đi để lại cho tôi chồng sách vở bốc mùi ẩm mốc, căn phòng không có cửa sổ, không chút ánh sáng, không một sự sống.

nguoi-coi-am

Tôi cứ vật vờ như những xác chết trong nạn đói của Nam Cao,hờ hững nhìn cây kim đồng hồ nhích từng chút nặng nhọc, thật xuất sắc khi tôi đang sống và trải nghiệm cuộc đời của Mị, của Hộ, của Chí, sống với những đớn đau mà họ đã từng trải qua, sống như người cõi âm.

Anh, gã con trai có nhiều hoài bão và tham vọng. Sáng nay chỉ mới 5 giờ sáng, anh đã  có mặt tại trung tâm thành phố Vũng Tàu để chạy truyền thông cho dự án của công ty. Anh chụp và gửi cho tôi xem những hoạt động của người dân vào buổi sớm mai, nào là những con cá lấp lánh ánh bạc đang giãy giụa dưới tấm lưới, nào là khung cảnh bình minh trên biển, cảnh những chiếc thúng tròn lênh đênh trên sóng nước. Nhớ anh mười phần, tôi ganh tị với anh hết tám phần bởi những năng lượng anh có được trong khi hiện tại, xung quanh tôi, chỉ toàn bóng tối. Một lần nữa, anh lại gửi về cho tôi một chút sự sống của ngày mới. Tôi bật dậy, làm vệ sinh cá nhân rồi khoác vội chiếc áo mỏng tang lên người. Tôi muốn mình vùng vẫy thật mạnh, xé toạc những thứ kinh khủng đang ôm trọn lấy thân thể tôi những ngày qua, cách tôi chọn là chạy đến quán cafe quen thuộc, tìm một chỗ ngồi bên cửa sổ rồi lặng lẽ để nhìn dòng đời xô đẩy. Tôi chạy trốn bản ngã, chạy trốn chính ngôi nhà của mình để nhìn lại chính bản thân mình.

Gọi cho mình một tách trà hoa cúc nóng, tôi bắt đầu chìm vào những giấc mộng bên khung cửa sổ thơ mộng và bản nhạc tình ca của quán quen.

Sài Gòn năm nay lạ quá, mưa vào mùa đông, nhìn những giọt nước mưa rơi đì độp trên lá, tôi lại tưởng hè về. Hàng nghìn kí ức ùa về trong đầu tôi, vùng vẫy đến phát ngộp. Ngoài cửa sổ là những tán lá xanh mơn mởn của loài cây bò cạp vàng, loài cây mà người đời thường ví von chúng là đế vương của các loài hoa bởi mang trong mình một màu vàng vương giả. Chúng kiêu hãnh đến thế, ấy vậy mà ngày trước, bọn trẻ con chúng tôi nỡ lòng nào hái hoa về, đập nát ra và chế biến những món ăn kinh dị cho lũ kiến và sâu bọ. Thứ làm tôi nhớ đến khi nói đến bò cạp vàng nhiều nhất đó là những con bướm nhỏ. Mãi đến sau này khi lớn lên, nhờ vào google, tôi mới biết chúng có tên là bướm bắp cải. Đó là một loài bướm nhỏ được phủ lên mình màu trắng xanh nhẹ nhàng như những chiếc lá non mới nhú, chẳng cần chút họa tiết hay sắc màu rực rỡ nào điểm xuyến trên đôi cánh ấy, chúng đơn giản, ngây thơ và mỏng manh đến lạ. Vào những ngày nắng, chúng thường bay rất nhiều trên những cây bò cạp vàng tạo nên một khung cảnh rất nên thơ, hình ảnh đó đến tận bây giờ vẫn còn ám ảnh tôi khi nhớ về kí ức của một thời thơ dại.

Cô bé ngồi sau cất giọng rất nhỏ nhẹ: "Chị ơi, chị có khăn giấy không, cho em xin một tờ"

Tôi xoay người lại nhìn em, một cô bé cỡ 8 tuổi mặc chiếc áo đầm màu trắng đang nhoẻn cười chờ đợi câu trả lời, trên tay em là một chiếc máy ảnh canon cũ.

“ Không, chị không có” – Tôi đáp rồi quay mặt lên tiếp tục thả hồn theo những hạt mưa rơi bên cửa sổ

Chỉ trong phút giây ngắn ngủi, tôi nhận ra cô bé có nụ cười thật tươi với hàm răng đều như bắp , mái tóc ngắn của em bồng bềnh như những đám mây lững lờ trôi vào một ngày nắng đẹp. Cô bé lại gần cửa sổ chỗ tôi ngồi,em đưa máy ảnh ngang tầm mắt, hướng ống kính về phía cảnh vật bên ngoài qua khung cửa, bất giác, em quay sang tôi và chụp.

Ánh đèn flash bất ngờ làm tôi chói mắt đến độ khó chịu

- “Em làm gì vậy?” - Tôi phát cáu

- “Chụp ảnh chị ” – Em nói rồi cười hì hì như chưa có chuyện gì xảy ra. Em lại gần và đưa tôi xem tấm ảnh em vừa chụp được

- “ Chị đẹp không này?”

Tôi nhìn vào màn hình máy ảnh, những chiếc ghế trơ trọi trong quán thật tẻ nhạt, trên mặt bàn vẫn là ly trà tôi đang uống dở, thế nhưng... tôi đâu?

Tôi ngước lên nhìn em, tôi vẫn chưa hết bàng hoàng thì em trả lại cho tôi một nụ cười thật hiền, đáy mắt em trong vắt như những vũng nước đọng ngoài kia, cả bầu trời, cả những tán lá bò cạp vàng đung đưa trong cơn mưa tiết đông lạnh lẽo.

Tôi đâu? Tôi hét toáng lên trong suy nghĩ của chính mình.

Em chạy về bàn của mình bỏ mặc tôi trong  nỗi ngỡ ngàng đến run sợ, có phải đôi mắt tôi đã vùi chôn vào những giấc mộng quá lâu, lâu đến nỗi không còn tìm thấy bản thân mình? Quái lạ, tôi gặp ma hay tôi đã không còn tồn tại trên cõi đời này nữa?  Không thể nào, tôi tự trấn an mình. Chiếc máy ảnh canon cũ mèm được em đeo tòn ten tren cổ trông như một nhà báo, một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Nhưng khoan đã, em chỉ tầm 8 tuổi thôi mà. Em... em là ai?

Tôi xoay người lại đế tìm kiếm câu trả lời nhưng không thấy em đâu nữa, chỗ em ngồi, tôi chỉ thấy con bướm bắp cải vươn đôi cánh thanh khiết của mình bay ra cửa sổ khi cơn mưa còn chưa dứt.

Tôi ở đâu trong tấm ảnh đấy? Tôi ở đâu giữa quán cafe vắng tanh này, giữa cuộc đời này. Và em là ai? Có phải em là cánh bướm thuần khiết ấy đang cư ngụ nơi bầu trời bao la đấy không?

Tiếng nhạc du dương trong quán cafe bỗng được thay bằng tiếng kinh cầu nghe não nề, buồn đến vô tận...

3 1
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập

_ Bun_❤ | Chat Online Report
 - Like nhớ trả
​#Bun
0 0
phg hue | Chat Online Report
 Like nhớ trả
0 0
N hƯ | Chat Online Report

- Cg Xênh
​-Like nek
1 0
やまざき てがみ UwU | Chat Online Report
like rồi nha
0 0
vhkl | Chat Online Report
like 
​nhớ trả 

0 0
Linh Khanh Duong | Chat Online Report
R nha
0 0
Diệu Linh | Chat Online Report
đã like
nhớ trả tớ nhoe cạu
0 0
‿ღ℣ũ ❦ℋℴài❦ℵgọc❦ℵℎⅈ ²ᵏ₈ | Chat Online Report
like nhớ trả
1 0
Ziin Ziin | Chat Online Report
like nhớ trả nha a thiên
# DUẬT
0 0
Thỏ ngọc | Chat Online Report
Nhớ trả  like cho mik nha thiên
1 0
Xem thêm 10 bình luận tiếp theo
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập