Hải Đăng

#hashtag
138
7 theo dõi 0 bạn bè
Thông tin
Link tài khoản:
Xem trên Lazigo
Thành tích: 1 câu hỏi | 0 trả lời
Điểm số: 0đ giải bài | 0đ tặng
Chưa đạt Huy hiệu Học tập
Số ngày hoạt động: 9 ngày
Chưa đạt Huy hiệu Chuyên cần
Huy hiệu (+)
0 - 0 - 0
Học lực: Chưa xác định
Cấp học: Trung học cơ sở
Môn học yêu thích:
Tình trạng: Chưa xác định
Sở thích: Chưa xác định
Đã tham gia: 27-08-2020
Số ngày hoạt động: 9 ngày
Ảnh nền
Báo cáo vi phạm
5
15 sao / 3 đánh giá
5 sao - 3 đánh giá
4 sao - 0 đánh giá
3 sao - 0 đánh giá
2 sao - 0 đánh giá
1 sao - 0 đánh giá
Điểm 5 SAO trên tổng số 3 đánh giá
0 quà tặng | 1 câu hỏi | 0 trả lời
0 0
Hải Đăng
Link | Report
2020-08-27 13:12:17
Chat Online
Trại súc vật
George Orwell
Phạm Minh Ngọc dịch và giới thiệu
Trại Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì được in ở Mĩ.
Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng số bản in cả ở Anh và Mĩ là
195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ II do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế,
tuy vậy cho đến khi Orwell mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại
Súc Vật được in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to lớn
và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được dịch ra tất cả các
ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như Telugu (một dân tộc thuộc bắc
Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn 50 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm
đã được dịch ra 68 thứ tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình
chọn 100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến hành, Trại
Súc Vật được xếp thứ 31.
Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell chúng tôi xin giới thiệu Trại Súc
Vật, một trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông với lời tựa cho lần xuất bản bằng
tiếng Ukraine do chính Orwell viết. Lời tựa này được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản
gốc đã bị thất lạc), theo đề nghị của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này
cho những người Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do quân
đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng Ukraine dành cho lần
xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin Classic trong lần xuất bản năm 2000
đã cho dịch lại và in kèm với lời giới thiệu của Malcolm Bradbury.
Sau tác phẩm Trại Súc Vật, George Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng 1984. Tác
phẩm này nằm ở vị trí 13 trong bảng tổng sắp của nhà sách Randomhouse đã nói ở trên.
Tin rằng một ngày gần đây tác phẩm bất hủ này cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt.
Phạm Minh Ngọc
Tôi được yêu cầu viết lời giới thiệu cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật sang tiếng
Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng tôi đang viết cho những độc giả mà tôi không có một chút
hiểu biết nào và họ cũng chưa từng có cơ hội tìm hiểu tôi.
Trong lời giới thiệu chắc chắn các độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác tác phẩm Trại
Súc Vật, nhưng trước tiên tôi muốn tự kể về mình và những trải nghiệm đã dẫn tôi đến
quan điểm chính trị hiện nay.
Tôi sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó cha tôi là một viên chức trong bộ máy hành chính
Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu gồm các quân nhân, tu sĩ, viên
chức chính phủ, giáo sư, luật sư, bác sĩ v.v... Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một
trường công lập thuộc loại đắt nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là
do được nhận học bổng chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường
như thế.
Ngay sau khi thôi học (lúc đó tôi chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và tham gia lực lượng
cảnh sát Hoàng gia tại đây. Tôi làm ở đó năm năm. Việc này hoàn toàn không hợp với
tôi, tôi trở nên căm ghét chủ nghĩa đế quốc mặc dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện
chưa cao và quan hệ giữa người Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về
lại Anh quốc vào năm 1927 tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không có thành
công đáng kể nào. Trong những năm 1928‐1929 tôi sống ở Paris, chuyên viết truyện ngắn
và tiểu thuyết nhưng không có nhà xuất bản nào chịu in (tôi đã xé bỏ hết). Những năm
sau đó tôi phải tay làm hàm nhai, đôi khi phải nhịn đói. Chỉ từ năm 1934 tới nay tôi mới
sống được bằng ngòi bút. Trong thời gian này tôi đã sống nhiều tháng giữa những người
nghèo khổ và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại những khu vực tồi tệ nhất của những khu phố
nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn với họ vì không có tiền, nhưng sau này tôi lại rất thích
lối sống đó. Tôi đã dành nhiều tháng trời để nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc
nước Anh. Cho đến năm 1930 nói chung tôi vẫn chưa phải là người theo trường phái xã
hội. Thực ra tôi vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình.Tôi trở thành
người theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường tầng lớp
công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã hội theo kế hoạch hoá
về mặt về mặt lí luận.
Tôi lập gia đình năm 1936. Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong những ngày
đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn đi Tây Ban Nha để chiến đấu cho chính phủ nước này.
Chúng tôi sẵn sàng lên đường, sáu tháng sau đó, khi tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã
khởi sự từ trước. Tôi đã ở mặt trận Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một
phát đạn bắn tỉa xuyên qua cổ.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến những người ngoại quốc hoàn toàn không hiểu được
cuộc đấu tranh giữa các đảng phái ủng hộ chính phủ Tây Ban Nha. Do một loạt sự tình
cờ, tôi không tham gia các Binh đoàn Quốc tế như đa số những người ngoại quốc khác
mà chiến đấu trong hàng ngũ của lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo
phái Troskist Tây Ban Nha.
Vì vậy giữa năm 1947 khi những người Cộng sản nắm được quyền kiểm soát (hay một
phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây Ban Nha và bắt đầu săn đuổi những người
Troskist thì cả hai vợ chồng tôi đều trở thành nạn nhân. Chúng tôi may mắn đi khỏi được
Tây Ban Nha, thậm chí không bị bắt lần nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ,
một số bị tù đày nhiều năm, số khác thì mất tích.
Những cuộc săn người ở Tây Ban Nha xảy ra đồng thời với những cuộc thanh trừng vĩ
đại ở Liên Xô. Thực chất những vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và ở Nga chỉ là một (gọi
là âm mưu với bọn phát xít) và nếu nói về Tây Ban Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin rằng
đấy là những vụ kết án oan. Qua đó tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi rằng
bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân chủ
đến mức nào.
Hai vợ chồng tôi đã chứng kiến những người vô tội bị quẳng vào nhà giam chỉ vì họ bị
nghi là không theo đường lối chính thống. Khi trở về Anh chúng tôi thấy rất nhiều người
thạo tin và nhạy bén tin vào những bản án kì quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do
báo chí tường thuật từ những vụ án ở Moscow.
Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã
hội ở phương Tây.
Đến đây tôi xin dừng lại một chút để trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết.
Tôi chưa đến thăm Nga bao giờ và hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là kiến thức do thu
lượm được từ báo chí, sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức tôi cũng sẽ không can thiệp vào
công việc nội bộ của Liên Xô: tôi sẽ không kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì
những phương pháp dã man và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như
thế, dù có muốn, họ cũng không thể hành động khác được.
Nhưng mặt khác đối với tôi điều cực kì quan trọng là nhân dân Tây Âu phải nhận rõ chế
độ Xô viết như nó đang là. Từ năm 1930 tôi nhìn thấy rất ít bằng chứng là Liên Xô đang
tiến đến cái có thể thực sự gọi là Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng
rằng xã hội ấy đang chuyển hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền,
cũng như mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền lực đã làm
tôi choáng váng. Hơn nữa công nhân và trí thức ở những nước như Anh quốc lại không
hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên Xô năm 1917. Một phần vì họ không chịu
hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng có một nước xã hội chủ nghĩa quả thực đang tồn tại ở
đâu đó), một phần vì họ quen với cuộc sống tự do và ôn hoà, họ không biết gì về chủ
nghĩa toàn trị.
Cần phải nhớ rằng nước Anh chưa phải là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn là nước tư
bản với những đặc quyền đặc lợi giai cấp (ngay cả bây giờ, sau cuộc chiến tranh có xu
hướng làm cho mọi người bình đẳng hơn) và sự chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù
sao ở đây người dân đã có cuộc sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm
qua, luật pháp tương đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được và
cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng hộ quan
điểm của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào. Trong hoàn cảnh như vậy
người ta không thể nào hiểu được những hiện tượng như trại tập trung, cưỡng ép di cư
hàng lọat, bỏ tù không cần xét xử, kiểm duyệt báo chí v.v... Tất cả những điều đọc được
trên báo chí về những nước như Liên Xô được tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của
nước Anh và họ ngây thơ tin ngay những điều dối trá của bộ máy tuyên truyền của chế
độ toàn trị đó. Cho đến năm 1939, và cả sau này nữa, đa số người Anh không hiểu được
thực chất chế độ phát‐xít ở Đức và nay họ cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với
Liên Xô.
Điều đó đặc biệt có hại đối với phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu đối với chính
sách đối ngoại của nước Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga là nước xã hội chủ nghĩa và
mọi hành vi của những người cầm quyền ở đó đều nên được tha thứ, nếu không nói là
phải theo là sự phản bội đối với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong mười năm gần
đây tôi đã đi đến kết luận rằng việc phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng cần
thiết nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi trở về từ Tây Ban Nha tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết
dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các thứ tiếng khác. Nhưng chi tiết của
câu chuyện vẫn chưa có, cho đến một hôm (khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy
một cậu bé, khoảng mười tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp,
cứ mỗi lần con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé lên ý
nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con người không thể nào
còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột loài vật cũng hệt như các tầng lớp
hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy.
Tôi tiến hành phân tích học thuyết của Marx trên quan điểm của súc vật. Đối với loài vật
thì rõ ràng là luận điểm về đấu tranh giai cấp giữa người với người chỉ là một sự lừa mị,
vì mỗi khi cần bóc lột súc vật là tất cả mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại
chúng: cuộc đấu tranh thực sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây việc
tạo ra tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có thì giờ, cho nên
mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này và cuối cùng tôi đã đưa thêm một
số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran là sự kiện xảy ra trong thời gian tôi viết. Như
vậy là đường hướng chính của câu chuyện đã nằm trong đầu tôi suốt sáu năm trước khi
tôi thực sự đưa nó lên giấy.
Tôi không có ý bình luận tác phẩm, nếu tác phẩm không có sức thuyết phục thì có nghĩa
là tác phẩm ấy đã thất bại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều
tình tiết được lấy từ lịch sử của cuộc Cách mạng Nga nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng
trưng và trật tự đã được thay đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các
nhà phê bình bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc giả
sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà giải hoàn toàn giữa
loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý của tôi, ngược lại, tôi cố ý kết thúc ở
chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi viết chuyện này ngay sau Hội nghị Teheran, mọi người lúc đó
đều nghĩ rằng Hội nghị này sẽ thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp nhất có thể giữa Liên Xô
và phương Tây. Cá nhân tôi không tin rằng quan hệ tốt đẹp đó có thể kéo dài được lâu,
và như các sự kiện cho thấy, tôi đã không lầm.
Tôi không biết phải nói gì thêm nữa. Nếu độc giả nào quan tâm đến cá nhân tôi thì tôi xin
nói thêm rằng tôi đã goá vợ, hiện tôi đang sống với con trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên
nghiệp nhưng từ khi bắt đầu cuộc chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên.
Tôi thường viết cho tờ Tribune, một tờ tuần báo đại diện cho phái tả của đảng Lao động.
Các cuốn sách sau đây của tôi có thể được độc giả quan tâm: Những ngày ở Miến điện
(câu chuyện về Miến điện), Tưởng nhớ Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi
trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học
đương đại Anh, được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý
văn chương).
1947
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên đóng cửa
chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi sang phải, khi sang trái, ông lảo
đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia
cuối cùng trong ngày rồi leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng sột soạt, thì
thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con lợn đực trắng, từng được huy
chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho
mọi loài cùng nghe. Chúng thoả thuận với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ sẽ tập
trung trong nhà kho lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh
(chúng gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó mang tên Willingdon Điển Trai) và
sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện.
Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới ánh sáng của
chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù thời gian gần đây có béo
thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra, nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt,
phúc hậu. Những con khác bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi.
Đầu tiên là ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi trên đống
rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu trên rui mè, bọn bò và cừu
nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai lại của chúng. Hai con ngựa kéo xe tên là
Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào, từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước chúng đều thận trọng
quan sát để không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con
ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở. Chiến Sĩ, một con
tuấn mã cao đến gần hai mét và khoẻ bằng hai con ngựa khác. Vì có một vệt trắng dọc
sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra cu cậu cũng không thuộc loại thông minh,
nhưng bù lại, nó được các con khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau
đó là đến con dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già
nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở miệng là y như
rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi
để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật duy
nhất không bao giờ cười. Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy
không nói ra nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng yên lặng
gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn.
Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng vừa kêu
chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một chỗ an toàn. Bà Mập lấy chân
trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp
đi lúc nào không hay. Ngay trước khi buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái
dốt nát, màu trắng, chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục
đường, mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và lắc lư
bờm để mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm trên đó. Cuối cùng
là một con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi
chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập, chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ…
gừ… trong cổ họng, mặc Thủ Lĩnh muốn nói gì thì nói.
Thế là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con quạ Moses, nó
ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng
lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và bắt đầu:
ʺThưa các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ kì lạ. Nhưng tôi sẽ nói
chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các đồng chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa các đồng
chí, tôi nghĩ rằng tôi không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa, vì vậy tôi cho rằng trước khi
chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí những kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy được
trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có một cuộc đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi
nằm một mình trong chuồng, tôi nghĩ rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua bất kì con vật
nào trên thế gian này. Đó là điều tôi muốn nói với các đồng chí.
Bây giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng ta hãy nhìn thẳng vào
sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai, khốn nạn và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được
một khẩu phần vừa đủ để khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm đến kiệt sức và
khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã man, tàn bạo. Không có con vật
nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm vui ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con
vật nào ở nước Anh này được tự do. Cuộc sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự
thật trần trụi là như thế đấy.
Nhưng đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ nước ta lại nghèo đến độ không nuôi
nổi những động vật sống ở đây ư? Không, ngàn vạn lần không, thưa các đống chí. Đất Anh màu
mỡ, thời tiết thuận hòa, thừa sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn hiện nay
rất nhiều. Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một tá ngựa, hai chục bò, hàng
trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi và phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào
tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao chúng ta lại cứ tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này?
Bởi vì hầu như toàn bộ những gì chúng ta làm ra đều bị con người chiếm đoạt hết. Đấy là nguyên
nhân tất cả các vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn gọn bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ
thù của chúng ta. Nếu không còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn bị đói, không còn
phải làm công việc khổ sai nữa.
Người là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không làm ra sữa, không đẻ ra trứng,
người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng thỏ. Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó
bắt chúng ta làm việc, cướp lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng ta ăn vừa đủ
để không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta bón ruộng, thế mà chúng ta có
gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua
các đồng chí cho bao nhiêu lít sữa? Thế số sữa mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu?
Kẻ thù của chúng ta đã uống đến giọt cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua các bạn đã đẻ bao
nhiêu trứng, trong đó có bao nhiêu quả nở thành gà con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ
bán lấy tiền hết rồi. Bà Mập, bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng
xế của bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ không bao giờ được gặp lại
chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng, công cho bốn lần vượt cạn cũng như công
việc đồng áng của bà chỉ có thế mà thôi!
Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn tuổi trời đâu. Riêng tôi thì chẳng
có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp may. Năm nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn
trăm đứa con. Trời đất sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng có con vật
nào thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang ngồi trước mặt tôi đây, trong
vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã cõi đời trên tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn,
gà, cừu, không ai trong chúng ta tránh khỏi cái kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và
loài chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp của đồng chí vừa yếu đi
thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn.
Những con chó già, rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào cổ và quăng xuống hồ.
Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời này của
chúng ta chính là do con người mà ra hay sao? Nếu chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi
thành quả lao động của chúng ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau một đêm
chúng ta sẽ trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm việc, không kể ngày đêm,
cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị của loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí ‐
đấy là thông điệp của tôi. Tôi không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần
tới, cũng có thể là một trăm năm nữa, nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn thấy những cọng rơm
bên dưới chân tôi đây rằng sớm muộn gì rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy
nghĩ đến điều đó trong suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy chuyển thông
điệp của tôi đến các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi
cuối cùng.
Các đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có nghe theo lời tuyên truyền rằng Con
Người và các loài vật cùng có chung quyền lợi, rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh
vượng của loài kia. Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai, nó chỉ quan
tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất trí, phải có tinh thần đồng chí
trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người đều là kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí.ʺ
Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói thì có bốn con
chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy con chó đã trông thấy và may là lũ
chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị
im lặng.
ʺThưa các đồng chíʺ, nó nói, ʺcó một vấn đề cần phải giải quyết. Những con thú hoang
như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi
xin đặt vấn đề với hội nghị như sau: Chuột có phải là đồng chí không?ʺ
Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột là đồng chí. Chỉ có bốn
phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng sau này mới phát hiện ra rằng
mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ Lĩnh tiếp tục:
ʺTôi xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của các đồng chí là phải
luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả những gì do nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân
đều là kẻ thù. Tất cả những loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí lại phải luôn luôn
nhớ rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu tranh chống lại chúng. Ngay
cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được tập nhiễm các thói xấu của chúng. Không có con
vật nào được sống trong nhà, ngủ trên giường, mặc quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền
hoặc tham gia buôn bán. Tất cả phong tục của loài người đều là có hại. Quan trọng nhất là không
con nào được áp chế con nào. Khoẻ cũng như yếu, thông minh tài trí cũng như bình thường, tất
cả chúng ta đều là anh em. Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ của tôi tối hôm qua. Tôi
không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái đất khi con người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống
dậy trong trí tôi một việc như sau:
Cách đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô bác lợn khác thường hát
một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu và ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng thuộc
nhạc điệu, nhưng tôi đã quên từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi đã nhớ lại tất cả, hơn thế
nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng ngày xưa các loài vật đã từng hát như
thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ gần đây hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ
hát cho các đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu cho các
đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh Anh quốcʺ.
Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó hát cũng
không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu ʺClementineʺ và ʺLa Cucurachaʺ. Lời bài
hát như sau:
ʺSúc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi
Đồng cỏ núi đồi
Mãi mãi xanh ngời
Khi lũ người
Không còn là ách trên vai
Chạc, chạc không còn
Cương, cương cũng không
Roi vọt, chửi mắng
Chỉ là quá khứ tối tăm
Ta giàu, ta có
Vườn cây, đồng lúa
Đậu, sắn, ngô, khoai
Là của chúng ta từ đây
Mặt trời sáng soi
Nước càng ngọt tươi
Gió mát muôn đời
Là ngày tự do tương lai
Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươiʺ [1]
Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con kịp bắt theo ngay trước khi
Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất cũng nắm được nhạc điệu và thuộc
mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay
trong vài phút đầu. Sau vài lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh
quốc. Mỗi loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu cạp cạp.
Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng có thể hát mãi như thế
suốt đêm nếu không bị ngăn trở.
Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông bước xuống giường vì tin chắc là
có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu súng vẫn thường dựng ở góc phòng và bắn
một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy viên găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng
kết thúc. Từng con quay về chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm
xuống đống rơm và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ.
Ba đêm sau Thũ Lĩnh già bình thản ra đi. Xác nó được chôn ở cuối khu vườn.
Chuyện đó xảy ra vào đầu tháng ba. Lũ súc vật tăng cường hoạt động ngầm liên tục
trong ba tháng tiếp theo. Bài diễn văn của Thủ Lĩnh đã tạo ra một quan niệm sống hoàn
toàn mới nơi những con thông minh. Chúng không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà
Thủ Lĩnh tiên đoán sẽ xảy ra, chúng cũng không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó,
nhưng chúng biết rõ một điều là có trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác
giáo dục và tổ chức dĩ nhiên là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi là loài thông
minh nhất. Hai con lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và Napoleon đang được ông
Jones vỗ béo để bán là hai con nổi tiếng nhất. Napoleon là một con lợn đực, trông hung
dữ, giống Berkshire duy nhất trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời nhưng nổi tiếng kiên
nhẫn. Tuyết Tròn thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều sáng kiến hơn, nhưng đa số cho
rằng tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon. Số còn lại đều là lợn thịt. Con nổi bật
nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một con lợn nhỏ, khá béo nhưng lanh lợi, hai má phính,
đôi mắt đảo lia lịa còn giọng nói thì the thé. Nó là một diễn giả có hạng, khi cần chứng
minh một vấn đề khó khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy đuôi, trông rất thuyết phục.
Đồn rằng nó có thể biến đen thành trắng dễ như chơi.
Ba con này đã phát triển học thuyết của Thủ Lĩnh già thành một hệ thống triết học hoàn
chỉnh mà chúng gọi là Súc Sinh Kinh. Đêm nào cũng vậy, cứ sau khi ông Jones đi ngủ là
chúng bí mật tụ họp trong nhà kho để giảng giải cho những con khác các luận điểm chủ
yếu của Súc Sinh Kinh. Thoạt đầu quả là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và
rất ngu dốt. Có con nói rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là ông chủ,
có con còn phát biểu một cách thiếu ý thức: ʺÔng Jones nuôi chúng ta. Không có ông ấy thì ta
chết đói rã họng ra ấy chứʺ. Một số con còn đặt câu hỏi đại loại: ʺQuan tâm đến chuyện sau khi
ta chết để làm gì?ʺ hoặc ʺĐằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng sẽ diễn ra, ta làm hay không làm thì
cũng thế thôiʺ. Mấy con lợn phải khó khăn lắm mới thuyết phục được chúng rằng những
luận điệu như thế là hoàn toàn trái với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Nhưng những câu
hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả ngựa cái màu trắng tên là Mollie. Đầu tiên ả hỏi Tuyết
Tròn:
ʺThế sau khi khởi nghĩa thì có đường không?ʺ
ʺKhôngʺ, Tuyết Tròn ngắt lời, ʺChúng ta không sản xuất đường. Thực ra đồng chí sẽ không cần
đường. Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm mà đồng chí cần.ʺ
ʺThế tôi có còn được đeo ruy băng nữa không?ʺ
ʺĐồng chíʺ, Tuyết Tròn nói, ʺCái ruy băng mà đồng chí yêu thích đó chính là biểu tượng của
tinh thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy rằng tự do đáng quí hơn cái ruy băng hay sao?ʺ
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ không tin tưởng lắm.
Bọn lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bác bỏ những luận điệu do con quạ
Moses đưa ra. Moses là con vật cưng của ông Jones, nó chuyên đi rình rập nhưng lại nhớ
rất nhiều chuyện cổ tích và cũng là một diễn giả có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương
quốc thần thoại tên là Núi Xôi, nơi linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses nói
rằng vùng đó nằm không xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều là chủ
nhật hết, còn cỏ ba lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì mọc ngay trên bờ
dậu. Các con vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không làm, nhưng có vài con lại tin là
có miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành ra lũ lợn phải vất vả lắm mới thuyết phục được
chúng rằng không thể nào có một miền như thế được.
Tông đồ tin cậy nhất của chúng là hai con ngựa kéo xe, Chiến Sĩ và Bà Mập. Hai con này
vốn dĩ chậm hiểu nhưng khi chúng đã coi lũ lợn là sư phụ rồi thì nuốt lấy từng lời giáo
huấn rồi giảng giải lại cho những con khác bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này
không bỏ bất cứ một buổi họp nào và thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh Anh
quốc mỗi khi cuộc họp kết thúc.
Cuộc Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ dàng hơn chúng tưởng rất nhiều. Trong những
năm gần đây, ông Jones, vốn là một điền chủ giỏi và nghiêm khắc, đã gặp nhiều sự cố.
Sau khi bị mất nhiều tiền vào việc kiện tụng, ông trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn
bình thường. Ông thường ngồi cả ngày trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa
uống bia, thỉnh thoảng lại cho con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân
thành ra một lũ lười nhác, trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột nát, rào
dậu nghiêng đổ, súc vật thường xuyên bị bỏ đói.
Đã sang tháng sáu, đây là mùa cắt cỏ. Trước ngày Hạ chí [2] , hôm ấy là thứ bảy, ông
Jones đi Willingdon và uống đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử Đỏ, trưa chủ nhật mới về.
Bọn gia nhân thì vội vàng vắt sữa từ sáng sớm rồi bỏ đi săn thỏ mà không thèm cho súc
vật ăn tí nào. Về đến nhà ông Jones leo ngay lên ghế sopha trong phòng khách rồi lấy tờ
ʺNews of the Worldʺ [3] phủ lên mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến tận chiều tối. Cuối
cùng chúng hết chịu nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho và thế là tất cả mọi con vật
cùng lao vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn
người làm công lập tức vồ lấy roi và lao vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên lưng lũ súc
vật khốn nạn. Lũ súc vật đói khát không thể chịu đựng thêm được nữa. Dù không hẹn
trước, chúng cùng xông lên và lao thẳng vào những kẻ áp bức. Ông Jones và gia nhân bất
ngờ bị đá, bị húc từ mọi hướng. Tình hình trở nên không thể kiểm soát được. Họ chưa
từng gặp chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi loạn bất thình lình của lũ súc vật mà trước
đây muốn đánh đập, muốn hành hạ thế nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ cầm
cự được vài phút rồi phải bỏ chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ để chạy
lên đường làng, trong khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo.
Qua cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã nhìn thấy hết mọi chuyện, bà vội vàng cho một vài
thứ vào cái túi vải rồi luồn theo cửa sau trốn khỏi Điền Trang. Moses cũng kịp lao ra khỏi
tổ rồi vừa kêu vừa bay theo bà chủ. Lũ súc vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và
đóng cổng. Thế là, cuộc Khởi Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang là
của bọn súc sinh ngay trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện.
Ban đầu chúng không tin là số phận đã mỉm cười với chúng. Việc làm đầu tiên của chúng
là tập trung lại và chạy vòng quanh khu nhà để tìm xem có còn sót người nào bên trong
không, sau đó chúng lao vào các toà nhà để phá hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của
ông Jones. Kho công cụ ở phía cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm thiếc
ngựa, vòng đeo mũi bò, xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống giếng. Còn dây
cương, dây thòng lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ thường treo ở cổ ngựa
thì bị quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc roi cũng cùng chung số phận. Mọi con
vật cùng nhảy cỡn lên khi trông thấy những cái roi bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất luôn vào
lửa những cái ruy băng vẫn thường buộc trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì hội chợ.
ʺRuy băngʺ, nó tuyên bố, ʺphải được coi là quần áo, cũng là biểu tượng của loài người. Mọi con
vật đều phải khỏa thân.ʺ
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái mũ rơm mà nó thường mang trong mùa hè để ngăn
ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào lửa.
Chẳng mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy tất cả những thứ có liên quan đến ông Jones.
Napoleon dẫn cả bọn vào kho và phát gấp đôi khẩu phần ăn hàng ngày, mỗi con chó
được hai bánh qui bơ. Sau đó chúng hát bài Súc Sinh Anh quốc bảy lần liền, rồi cả bọn đi
ngủ, chưa bao giờ chúng ngủ ngon như hôm ấy.
Như thường lệ, chúng thức dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng chúng lập tức nhớ ngay
đến sự kiện vinh quang vừa xảy ra và thế là cả bọn cùng lao ra đồng cỏ. Trên đồng cỏ có
một cái gò nhỏ, từ đây có thể nhìn thấy hầu khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và
ngắm nhìn khung cảnh trong ánh hồng của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước
mắt kia giờ đây đã thuộc về chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh,
chạy quanh mãi, thỉnh thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn mình trên
sương ướt, chúng gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung lên những nắm đất đen
và hít hà mùi vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi kiểm tra một vòng khắp trang trại,
chúng yên lặng ngắm nhìn khu ruộng lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá, lùm cây. Chúng
ngắm nhìn như chưa từng nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay cả lúc này chúng
cũng chưa tin rằng tất cả những thứ đó đã là của chúng.
Sau đó cả bọn lại cùng nhau quay về và yên lặng tập trung trước ngôi nhà chính. Dù ngôi
nhà này cũng đã thuộc về chúng nhưng chúng còn ngại, chưa dám vào ngay. Nhưng
Tuyết Tròn và Napoleon đã mau chóng lấy lại được bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi
từng con lục tục, thận trọng bước vào, tránh không làm xáo trộn các đồ vật bên trong.
Chúng nhón gót đi từ phòng nọ sang phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa
không thể nào tin được đang bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào gương soi,
nào ghế nệm lông ngựa, nào thảm nhung [4] , rồi ảnh nữ hòang Vitoria [5] treo trên lò
sưởi trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc tam cấp thì chúng bỗng phát hiện ra
là thiếu mất Mollie. Chúng quay vào và thấy Mollie còn đứng trong căn phòng ngủ đẹp
nhất nhà. Hoá ra cô nàng đã lấy một dải ruy băng màu xanh trên bàn trang điểm của bà
Jones, vắt lên vai và đang thẫn thờ soi gương. Các con khác túm ngay lấy nó và lôi ra
khỏi nhà. Mấy cái đùi lợn muối treo trong bếp được đem đi chôn, thùng bia trong phòng
rửa bát thì bị Chiến Sĩ đá thủng, những thứ khác hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một
nghị quyết về việc giữ toà nhà chính làm viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại
chỗ. Tất cả đều đồng ý là không con nào có quyền sống trong toà nhà này.
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết Tròn và Napoleon mời tất cả tập trung.
ʺThưa các đồng chíʺ, Tuyết Tròn nói, ʺBây giờ là bảy giờ rưỡi, chúng ta còn cả một ngày nữa cơ.
Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ, nhưng chúng ta còn một việc phải làm trước đã.ʺ
Thế là hai con lợn nói rằng nhờ những cuốn sách vỡ lòng của con ông Jones tìm được
trong đống rác mà suốt ba tháng qua chúng đã học và nay chúng đã biết đọc, biết viết.
Napoleon sai đi lấy một lọ sơn đỏ, một lọ sơn trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết
Tròn (vì nó là con viết đẹp nhất) kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xoá chữ Điền
Trang và viết chữ Trại Súc Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở đi đấy
sẽ là tên chính thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu nhà, Tuyết Tròn và
Napoleon lại ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát vào đầu hồi nhà kho. Chúng giải
thích rằng sau một thời kì khổ công nghiên cứu, ba tháng gần đây chúng đã đúc kết các
luận điểm của Súc Sinh Kinh thành Bảy Điều Răn. Bảy Điều Răn sẽ được kẻ lên tường và
sẽ là luật vĩnh viễn bất di bất dịch của tất cả các thành viên Trại Súc Vật. Tuyết Tròn leo
lên thang một cách khó nhọc (vì lợn khó giữ thăng bằng khi đứng trên thang) và bắt đầu
viết, trong khi Chỉ Điểm cầm hộp sơn đứng bên dưới mấy bậc. Các điều răn được viết
bằng sơn trắng trên bức tường quét hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội
dung như sau:
BẢY ĐIỀU RĂN
Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù.
Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn.
Không con vật nào được mặc quần áo.
Không con vật nào được ngủ trên giường.
Không con vật nào được uống rượu.
Loài vật không được giết hại lẫn nhau.
Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Các chữ đều được viết rõ ràng và cả đoạn chỉ có hai lỗi chính tả mà thôi, đấy là chữ
ʺgiườngʺ bị viết thành ʺgưìơngʺ và một chữ S bị viết ngược. Tuyết Tròn đọc to lên cho tất
cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu đồng ý, những con thông minh hơn lập tức học thuộc
lòng các Điều Răn.
ʺBây giờ, thưa các đồng chíʹʹ Tuyết Tròn vừa ném cái chổi sơn xuống đất vừa gào lên, ʺtất cả
ra đồng cắt cỏ! Chúng ta phải thu hoạch nhanh hơn lão Jones và lũ gia nhân của hắn.ʹʹ
Đúng lúc đó thì ba con bò cái vốn cảm thấy khó chịu từ trước bỗng rống lên. Suốt hai
mươi bốn tiếng đồng hồ qua chúng chưa được vắt sữa, vú của chúng căng mọng như
muốn nổ ra đến nơi. Sau một chút đắn đo, lũ lợn sai mang xô tới và đã thực hiện công
việc khá thành thạo, chân chúng tỏ ra phù hợp với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt
được năm xô đầy sữa béo, một số con tò mò đến xem.
ʺLàm gì với số sữa này nhỉʹʹ, có con hỏi.
ʺLão Jones thỉnh thoảng có trộn sữa vào thức ăn của chúng tôi đấyʹʹ, một chị gà mái lên tiếng.
ʺCác đồng chí, để ý đến sữa làm gì!ʹʹ, Napoleon vừa gào lên vừa bước ra đằng trước mấy xô
sữa, ʺĐể đấy rồi tính sau. Thu hoạch quan trọng hơn. Đồng chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu. Tôi sẽ ra
sau một lúc. Các đồng chí, tiến lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.ʹʹ
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt đầu cắt cỏ, nhưng chiều về thì chúng không thấy
mấy xô sữa đâu nữa.
‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐
[1] Nguyên văn hai bài thơ "Súc Sinh Anh quốc"
Beasts of England
Beasts of England, beasts of Ireland,
Beasts of every land and clime,
Hearken to my joyful tidings
Of the golden future time.
Soon or late the day is coming,
Tyrant Man shall be o'erthrown,
And the fruitful fields of England
Shall be trod by beasts alone.
Rings shall vanish from our noses,
And the harness from our back,
Bit and spur shall rust forever,
Cruel whips no more shall crack.
Riches more than mind can picture,
Wheat and barley, oats and hay,
Clover, beans and mangel-wurzels
Shall be ours upon that day.
Bright will shine the fields of England,
Purer shall its waters be,
Sweeter yet shall blow its breezes
On the day that sets us free.
For that day we all must labour,
Though we die before it break;
Cows and horses, geese and turkeys,
All must toil for freedom's sake.
Beasts of England, beasts of Ireland,
Beasts of every land and clime,
Hearken well and spread my tidings
Of the golden future time.
[2] Hạ chí: ngày 24 tháng 6.
[3] News of the World - Tờ báo ra vào chủ nhật, thường đăng các tin giật gân, không mang tính
chất chính trị, phát hành 5 triệu bản mỗi số. Xuất bản từ năm 1843.
[4] Nguyên văn the Brussels carpet - Thảm Brussels.
[5] Nữ hoàng Anh trị vì từ năm 1837 đến năm 1901
‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐
Phải công nhận là chúng làm việc rất chăm, không quản mệt mỏi, chỉ cốt thu hoạch cho
xong! Công khó của chúng đã được đền bù, chúng thu được nhiều hơn dự kiến.
Đôi khi chúng cũng gặp một số khó khăn vì tất cả công cụ đều được làm để dành cho
người chứ không phải cho súc vật, mà muốn sử dụng công cụ đó thì phải đứng được trên
hai chân sau. Nhưng phải nói bọn lợn là một giống thông minh ‐ khó đến đâu chúng
cũng có cách. Còn lũ ngựa thì hiểu rõ từng thửa ruộng, mà cắt và vun cỏ thành đống thì
chúng làm thạo hơn ông Jones và gia nhân nhiều. Bọn lợn không làm mà chỉ hướng dẫn
và kiểm tra các con khác. Với kiến thức như thế thì việc chúng nắm vai trò lãnh đạo là
đương nhiên. Chiến Sĩ và Bà Mập tự khoác lên mình máy cắt hoặc máy bừa cỏ (dĩ nhiên
là không cần hàm thiếc, cũng chẳng cần cương) và kiên nhẫn đi khắp cách đồng, trong
khi một con lợn nào đó bước theo sau, thỉnh thoảng lại kêu ʺĐi thẳng, đồng chí!ʺ hoặc
ʺQuay lại, đồng chí!ʺ. Tất cả các con vật, không kể lớn nhỏ, đều tham gia cắt và xếp cỏ.
Ngay đến bọn gà vịt cũng phơi mình dưới nắng suốt ngày để tham gia vận chuyển từng
lọn cỏ nhỏ bằng mỏ. Chúng đã hoàn tất công việc một cách nhanh chóng, phải nói là
nhanh hơn người, nếu ông Jones và gia nhân làm thì phải hai ngày nữa mới xong. Hơn
nữa đấy lại là một vụ mùa năng suất nhất từ trước đến nay. Không có chuyện rơi vãi vì
bọn gà, vịt rất tinh mắt, chúng nhặt đến từng cọng một. Và cũng không có con nào ăn
vụng, dù chỉ một miếng ngoạm.
Công việc của trang trại diễn ra thuận lợi trong suốt mùa hè năm đó. Bọn súc vật cảm
thấy vô cùng sung sướng, chúng chưa bao giờ nghĩ rằng chuyện đó lại có thể xảy ra. Ăn
là cả một niềm vui, vì bây giờ thức ăn là của chúng, do chúng và vì chúng chứ không
phải là thứ do một ông chủ keo bẩn bố thí cho nữa. Sau khi chúng đã tống khứ được lũ
người ăn bám vô tích sự đi rồi thì khẩu phần mỗi con dĩ nhiên là nhiều hơn. Và mặc dù
chưa có kinh nghiệm, chúng vẫn có nhiều thời gian thư giãn hơn. Chúng có gặp một số
khó khăn, ví dụ khi thu hoạch ngũ cốc thì phải dùng sức để thổi trấu đi vì trang trại
không có máy đập, nhưng với trí thông minh của lũ lợn và sức khoẻ của Chiến Sĩ thì việc
gì mà chúng chẳng làm được. Chiến Sĩ rất được kính trọng. Ngay khi còn ông Jones nó
đã chăm chỉ rồi, nhưng bây giờ nó làm việc bằng ba, có ngày tưởng chừng như toàn bộ
công việc của trại đều đổ dồn lên vai nó. Nó kéo rồi đẩy từ sáng đến tối và bao giờ cũng
có mặt ở những chỗ khó khăn nhất. Nó nhờ một con gà trống đánh thức trước nửa tiếng
và tự nguyện làm một số việc cần kíp nhất trước khi ngày làm việc chính thức bắt đầu.
Trước bất cứ khó khăn, trở ngại nào nó đều nói: ʺTôi sẽ cố gắng hơn nữa!ʺ, câu ấy đã trở
thành phương châm hành động của chính nó.
Những con khác cũng làm việc hết mình. Thí dụ lũ gà và vịt đã mót được đến hai tạ ngũ
cốc. Thói ăn cắp vặt; những tiếng ỉ eo về miếng ăn, miếng uống; chuyện cãi vã, cắn xé;
thói ghen tị ‐ những thói xấu đó của quá khứ đã biến mất hẳn. Không con nào trốn việc ‐
đúng ra là gần như không con nào. Mollie không thích dậy sớm và tìm cách chuồn trước,
nại rằng có hòn đá nhỏ dắt vào móng. Thái độ của con mèo cũng đáng ngờ. Cứ khi nào
cần là y như rằng nó đã bỏ đi đâu mất từ trước rồi. Chị chàng thường bỏ đi đâu đó rất
lâu và chỉ xuất hiện, như chưa có chuyện gì xảy ra, ngay trước bữa ăn hay vào buổi chiều,
khi công việc đã hoàn tất. Nhưng nó luôn luôn tìm được cách giải thích và kêu gừ gừ một
cách đáng yêu, thành ra khó mà nghi ngờ được thiện chí của nó. Chỉ có con lừa già
Benjamin là vẫn như cũ. Nó vẫn làm công việc một cách chậm chạm cố hữu như thời còn
ông Jones, không bao giờ trốn việc, cũng chẳng bao giờ làm hơn. Nó không nói gì về cuộc
Khởi Nghĩa cũng như những đổi thay sau đó. Nếu được hỏi có cảm thấy vui hơn thời còn
ông Jones không, thì nó bảo: ʺĐời lừa dài lắm. Các vị chưa thấy lừa chết bao giờ cơ màʺ ‐
bao giờ nó cũng nói một câu bí hiểm như vậy.
Ngày chủ nhật nghỉ. Bữa sáng ăn muộn hơn một tiếng và sau đó bao giờ cũng có một
cuộc họp mặt long trọng. Trước hết là lễ kéo cờ. Tuyết Tròn tìm được trong kho dụng cụ
một tấm khăn trải bàn cũ màu xanh của bà Jones rồi vẽ một cái móng và một cái sừng
màu trắng lên trên. Và thế là buổi sáng chủ nhật nào chiếc khăn trải bàn cũng tung bay
trên cột cờ trong vườn hoa. Tuyết Tròn giải thích rằng màu xanh tượng trưng cho đồng
ruộng Anh quốc, còn sừng và móng là biểu tượng của nước Cộng Hòa Súc Vật tương lai,
khi đã lật đổ được toàn bộ giống người rồi. Sau khi kéo cờ mọi con vật cùng đến tập
trung trong nhà kho lớn, chúng gọi đấy là Họp. Chúng lập kế họach cho tuần sau cũng
như thảo luận và ra nghị quyết về các kiến nghị khác nhau tại đây. Chỉ có bọn lợn đưa ra
kiến nghị mà thôi. Những con khác chỉ biết biểu quyết chứ không kiến nghị gì bao giờ.
Tuyết Tròn và Napoleon thảo luận hăng nhất. Nhưng hai con này luôn luôn chống đối
nhau: hễ con này đưa ra ý kiến gì là con kia lập tức phản đối. Ngay cả khi vấn đề đã được
quyết định rồi, như việc dành một miếng đất nhỏ phía sau khu vườn làm chỗ dưỡng già,
không ai có thể phản đối chuyện đó, thì hai con này lại tranh luận gay gắt về việc loài
nào, đến bao nhiêu tuổi thì được nghỉ hưu. Các buổi Họp bao giờ cũng kết thúc bằng bài
đồng ca ʺ Súc Sinh Anh quốcʺ, còn buổi chiều thì chúng được nghỉ tự do.
Bọn lợn dành cái kho dụng cũ làm tổng hành dinh. Buổi tối chúng học nghề mộc, nghề
rèn và những nghề khác qua những cuốn sách nhặt được trong toà nhà chính. Tuyết Tròn
còn đưa những con khác vào các tổ chức mà nó gọi là Ủy Hội Súc Sinh. Nó làm việc này
một cách say sưa, không biết mệt là gì. Nó đã thiết lập được Ủy Ban Trứng cho lũ gà mái,
Ủy Ban Chăm Sóc Đuôi cho lũ bò, Hiệp Hội cải huấn các đồng chí thú hoang (mục đích là
cải tạo bọn chuột và thỏ rừng); Phong Trào giữ lông thật trắng cho bọn cừu, vân vân và
vân vân, đấy là chưa kể các tổ xoá nạn mù chữ nữa. Nói chung các dự án của Tuyết Tròn
đều không có kết quả. Việc cải tạo lũ thú hoang thất bại gần như ngay từ đầu. Thái độ
của chúng chẳng thay đổi tí nào, mà cư xử tốt thì chúng lại càng láo thêm. Con mèo cũng
có chân trong Hiệp Hội cải huấn và đã họat động rất tích cực trong mấy ngày đầu. Có lần
nó lên tận mái nhà nói chuyện với mấy con chim sẻ đậu ngoài tầm với của nó. Nó bảo
rằng bây giờ mọi loài đều là đồng chí và nếu con sẻ nào muốn thì có thể đậu ngay lên
chân trước nó; nhưng bọn sẻ không dám lại gần.
Các lớp học đọc, học viết thu được kết quả khả quan. Trước khi mùa thu về đa số các con
vật trong trại đều đã thoát nạn mù chữ ở những mức độ nhất định.
Bọn lợn đọc thông viết thạo. Lũ chó cũng biết đọc, nhưng chúng chỉ đọc mỗi Bảy Điều
Răn mà thôi. Con dê tên là Muriel đọc thông hơn lũ chó nên buổi tối nó thường đọc cho
những con khác nghe các mẩu báo nhặt được trên đống rác. Lừa Benjamin đọc nhanh
không kém gì lũ lợn, nhưng nó chẳng đọc cái gì bao giờ. Nó bảo chẳng thấy có gì đáng
đọc. Bà Mập học thuộc cả bảng chữ cái nhưng không biết ghép vần. Chiến Sĩ không vượt
qua được chữ D. Nó thường lấy những cái móng to kềnh của mình để viết lên cát những
chữ cái A, B, C, D rồi đứng ngắm, tai cụp lại phía sau, thỉnh thoảng lại vẫy vẫy bờm, cố
gắng nhớ xem sau đó là chữ gì, nhưng chẳng bao giờ nhớ ra. Đôi khi nó cũng thuộc được
các chữ cái E, F, G, H, nhưng bao giờ cũng vậy, hễ thuộc mấy chữ đó thì lại quên các chữ
A, B, C, D. Cuối cùng nó đành thoả mãn với bốn chữ cái đó và ngày nào cũng viết một
hai lần để rèn trí nhớ. Mollie chỉ học năm chữ cái ghi đủ tên nó mà thôi. Nó thường lấy
cành cây nhỏ để xếp các chữ đó rồi trang trí thêm bằng một vài bông hoa, sau đó đi vòng
quanh để ngắm.
Những con khác không vượt qua chữ A. Những loài ngu hơn như cừu, gà và vịt không
thể thuộc được Bảy Điều Răn. Sau khi suy nghĩ, Tuyết Tròn tuyên bố rằng có thể rút Bảy
Điều Răn thành một cách ngôn như sau: ʺBốn chân tốt, hai chân xấuʺ. Nó bảo đấy chính
là nguyên lí cơ bản của Súc Sinh Kinh. Chỉ cần nắm vững cách ngôn
7 3
Khánh Duy | Chat Online Report
Hơi nhiều cậu ak
​Like = trả 5* + tus đầu link này :   
https://lazi.vn/user/phmzz_thss
Cảm ơn :D
#Duy
1 0
Min'z Ngu Ngơ's | Chat Online Report
Nhớ trả vô tus đầu và đánh giá 5* cho Linh'z nha!!Rảnh thì cho Linh'z một vé fl nhá
1 0
Nhi ? | Chat Online Report
Like nìa -^-
Nhớ trả tớ tuss đầu nhó '-'?

Camon ạ ~
#Emk3anhchichoemlamquendoi:)
#Em_iu_boss:>>
1 0
lncm | Chat Online Report
Đã like cho chủ tus cute hụt me nè :)
    Trả tới bằng Care tuss hộ tớ nhá :https://lazi.vn/posts/d/208173
0 0
Pepsi | Chat Online Report

Like nè.
​Trả theo dõi cho mk nha
Tiện tay tick 5* lun đc hơm (hứa sẽ trả )
Cảm ơn trc^^
0 0
Đăng nhập tài khoản để có thể bình luận cho nội dung này!

Đăng ký | Đăng nhập