VŨ NHƯ TÔ XÂY CỬU TRÙNG ĐÀI (Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) Tóm tắt vở kịch Vũ Như Tô Hồi 1: Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiến quyết từ chối xây Cửu Trùng đài. Hồi 2: Đan Thiềm, cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, ...
Trần Đan Phương | Chat Online | |
20/12 14:35:30 (Ngữ văn - Lớp 11) |
VŨ NHƯ TÔ XÂY CỬU TRÙNG ĐÀI
(Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng)
Tóm tắt vở kịch Vũ Như Tô
Hồi 1: Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiến quyết từ chối xây Cửu Trùng đài.
Hồi 2: Đan Thiềm, cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước tòa lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công”để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện.
Hồi 3: Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây Cửu Trùng đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng toà đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ.
Hồi 4: Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng đài bị chính những người thợ nổi loạn đập phá, thiêu hủy.
Hồi thứ tư
Bốn tháng sau – Cũng cảnh ấy, một đêm hè. Những phiến đá đã dọn đi. Xa xa là nửa một thứ “khải hoàn môn, một bên (về phía con rồng) là bức tường đá ong thấp, trên có tượng một kỵ mã, mũ trụ, áo giáp, đeo cung kiếm.
Lớp I (Vũ Như Tô – Thị Nhiên)
Họ ở Khải Hoàn môn đi ra. Vũ Như Tô phải chống gậy đi khập khiễng, tay trái cầm một chiếc đèn lồng, chàng thúng thắng họ.
THỊ NHIÊN:
Đây là cái gì, tôi rờn rợn người làm sao ấy. Cái cổng này cao như núi, nó như nuốt tôi đi không bằng. Mà sao bày lắm tượng thế này. Trời đất ơi! (đếm). Tất cả mười pho, mỗi hàng năm chạy dài dằng dặc, cưỡi ngựa trông gớm chết, như đánh ai thế kia? (bước ra). Mà cái bực đá này nữa, sao mà cao, mà lắm bực thế? Ngã một cái thì chết mất thôi. To quá, cao quá, gió thổi mạnh quá. Tôi chóng mặt lắm, thầy nó ạ. Tôi chịu thôi, cho tôi ra khỏi chỗ tin này (bíu lấy chồng).
VŨ NHƯ TÔ (cười) – Việc gì mà chóng mặt.
THỊ NHIÊN:
– Tôi sợ lắm (chợt nhìn chồng). Mà sao thầy nó không bước đi được thế kia… Khốn nạn. Có đau lắm không? Việc gì phải giấu tôi mới được chứ?
VŨ NHƯ TÔ: (có vẻ đau nhưng gượng): Tôi có làm sao đâu. Mẹ nó đến hay lo.
THỊ NHIÊN:
– Nghe tin thầy nó ngã từ trên nóc nhà xuống, đá đè lên cả người tôi cứ rụng rời ra. Phúc làm sao mà lại được vô sự. Nhưng thế này cũng thành tật! Què mất thôi!
VŨ NHƯ TÔ:
– Đành chịu chứ làm thế nào? Mình đã thấm vào đâu. (trông chung quanh nói một mình) Được đấy! (gật gù hỏi vợ) Mẹ nó trông có đẹp không?
THỊ NHIÊN:
– Thì tôi đã bảo tôi đang sợ hết vía lên đây. Tượng kia cứ như xô lại đánh tôi. Mà cái cổng kia, nói dại, nó đổ xuống thì chết (rùng mình)…
VŨ NHƯ TÔ:
– Mẹ nó mới chỉ biết cảnh ban đêm. Chứ buổi chiều lúc mặt trời lặn, buổi sáng lúc mặt trời mọc, chỗ sáng, chỗ tối, bóng người bóng ngựa, lóng la lóng lánh, trông còn rực rỡ, đẹp đẽ bằng trăm, bằng nghìn.
THỊ NHIÊN:
– Thầy nó nói đến khéo. à phải, tôi thấy nhiều người khen cái đài này lắm.
VŨ NHƯ TÔ: – Thế à, có thật không?
THỊ NHIÊN:
– Bao nhiêu người đi xem đấy, ai về cũng trầm trồ khen đẹp, khen lớn. Họ khen rồi họ chê đấy.
VŨ NHƯ TÔ: – Họ chê ở chỗ nào?
THỊ NHIÊN: – Có người chê đài chỉ toàn là cảnh An Nam, xấu lắm. Mấy lị họ chê ở chỗ xây đài phí tiền.
VŨ NHƯ TÔ: – Họ thì biết gì, cứ ruộng nhiều là tốt.
THỊ NHIÊN:
– Chứ gì. ấy cứ có ruộng, có thóc, có khoai, có đỗ, thể là thích nhất. Tôi cũng cứ thế đấy. à thầy nó ạ, lúa chiêm năm nay hỏng cả.
VŨ NHƯ TÔ: (mơ màng) – Hỏng à?
THỊ NHIÊN: – Vụ chiêm hỏng, mà lụt luôn mấy năm nay. Đói kém lắm thầy nó ạ.
VŨ NHƯ TÔ: (nói mơ hồ) – Phó Độ mà chạm thì không còn phải nói nữa.
THỊ NHIÊN:
– Thầy nó nói gì thế!… ở làng ta, mà cả ở quanh vùng, độ này cướp bóc nhiều lắm. Không biết rồi có yên không? Bên làng Cuội, có cả giặc nổi lên. Lý trưởng đến thu thuế, chúng giết cả Lý trưởng.
VŨ NHƯ TÔ: – Phiền nhỉ?…
THỊ NHIÊN: – Còn thằng cu Nhớn tôi cho nó đi học cụ Đồ rồi đấy. Nhưng cái Bé thì cứ quặt quẹo luôn. Khốn nạn lúc nào cũng hỏi bố ở đâu, mà bố chẳng hỏi con bao giờ. Nghĩ gì thế thầy nó?
VŨ NHƯ TÔ:
– Để nhiều khoảng rộng thế này mới đẹp, mới hùng. To lớn tự khắc là oai nghiêm.
THỊ NHIÊN: – Thôi cho tôi về.
VŨ NHƯ TÔ: – Đêm tối thế này về thế nào được!
THỊ NHIÊN:
– Thầy nó còn lạ gì tôi ngược xuôi buôn bán, làm ruộng, làm áng, quen với đêm khuya rồi. Thầy nó tính chẳng ra: Thân mình thì tàn tật, việc nhà thì bỏ, con cái cũng chẳng nhìn…
VŨ NHƯ TÔ:
– Mẹ nó nói thế nào tôi cũng xin chịu. Thôi bao nhiêu việc ở nhà xin trông vào mẹ nó đấy.
THỊ NHIÊN:
– Tôi có trách gì thầy nó đâu… Việc nuôi con, tôi xin lo liệu đâu có đấy. Nhưng biết bao giờ thầy nó về cho con nó mừng, cho cửa nhà vui vẻ. Con có cha như nhà có nóc. Nói thực cho tôi yên lòng nào…
VŨ NHƯ TÔ: – Độ năm năm nữa thôi.
THỊ NHIÊN: (buồn)
– Hãy còn lâu thế cơ? (ghé vào tai chồng) à này, tôi thấy người ta nói thầy nó có tình ý với cái người cung nữ Thiềm gì ấy, có phải không?
VŨ NHƯ TÔ: (tái mặt) – Chỉ bậy.
THỊ NHIÊN:
– Đàn ông thì ba vợ bảy nàng hầu, tôi có cấm đoán gì thầy nó, nhưng là nơi vua chúa, thì rồi chết cả họ!
VŨ NHƯ TÔ:
(tức giận) – Không hiểu làm sao thiên hạ lại đồn như thế? Bậy hết sức.
THỊ NHIÊN:
– Thì tôi có dám nghi ngờ thầy nó đâu? Thôi tôi về đây, nhất định năm năm nữa chứ?
VŨ NHƯ TÔ: – Năm năm nhất định. Mẹ nó ở lại đây, mai tôi dẫn đi xem chỗ đẹp hơn.
THỊ NHIÊN:
– Thôi thế là đủ, đẹp lắm rồi! Năm năm nữa. Gớm, thầy nó đến là hay vẽ chuyện. Cứ làm nho nhỏ cũng được. Người nghèo thì làm cái nhà bé, nước nhỏ thì xây cái đài nhỏ, ai lại… Đấy, lại làm thầy nó tức. Thầy nó ở lại nhé. Thế là thành tật đấy. Khổ quá. Mai bảo con là bố sắp về thì chúng nó phải biết là vui.
VŨ NHƯ TÔ:- Chán quá, chả có gì cho con.
THỊ NHIÊN:
– Thôi, tôi đi đường mua mấy cái bánh tẻ, bảo là của bố cho con thế cũng được (cắp nón đi xuống). Gớm cao quá đi mất thôi. Thầy nó có xuống được không? Đưa đèn đây tôi xách cho (giằng lấy).
VŨ NHƯ TÔ:
– Tôi xuống được. Còn giỏi chán. Mẹ nó vịn vào con rồng này mà xuống cho khỏi rợn. Còn một tay đưa tôi dắt. (Họ cùng xuống).
THỊ NHIÊN: (thè lưỡi) – Lèo ơi! Cứ như núi ấy thôi.
(Họ lần bước xuống. Khi xuống đến bực dưới cùng, vào khuất thì Thái tử Chiêm và tên thợ Chiêm ở phía tượng kỵ mã đi ra).
Lớp II: Thái tử Chiêm Thành – Một tên thợ Chiêm thành
THÁI TỬ:
– Gió mạnh quá nhỉ (trông chung quanh). Đài này kể ra thì đẹp thực! Người An Nam họ cũng tài, mà đây là họ mới bắt đầu đấy. Đến khi xong cả thì đẹp biết chừng nào. Trông lớn lao đồ sộ thực.
TÊN THỢ:
– Tưởng Thái tử không nên giúp họ xây cái đài này mới phải. Nào tải đá, nào kén thợ, nào mộ phu để bây giờ thuyền đắm, người chết hàng nghìn. Họ lại mượn cớ dọa không cho Thái tử về nước nữa.
THÁI TỬ:
– Mi hiểu làm sao được. Ta giúp họ xây đài là vì hai cớ. Cớ thứ nhất là để được chóng về nước; cớ thứ hai là để báo thù cho giống Hời ta.
TÊN THỢ: – Bẩm giúp họ xây cái đài thì sao gọi là báo thù được?
THÁI TỬ: – Mi ngu lắm. Họ với ta có cái thù truyền kiếp. Họ đã cướp đất ta, giết dân ta, bắt hàng vạn người về làm nô tỳ. Vua Chế Bồng Nga xưa dùng võ để báo thù không xong; nay ta muốn dùng kế khác. Thấy vua họ muốn xây Cửu trùng đài, ta mừng lắm, họ trúng kế ta. Mi có biết không? Nước ta bại chỉ vì nay làm đền, mai đẽo tượng, rút cục cả vua lẫn dân chết vì đền đài, còn họ chỉ nai lưng khơi sông, đắp đê, khai khẩn ruộng hoang; cho nên dân họ đông, nước họ mạnh, người họ hùng cường mới lấn áp ta được. Mi bảo nước ta xây đài cho đẹp, có ích gì không? Thế mà bây giờ họ lại bắt chước ta, ta nên cố giúp cho vua họ xây đài, cho hao người tốn của, cho họ kiệt quệ như ta. Bao nhiêu tinh anh, đổ cả vào cái đài này. Mi đã biết chưa? Rồi họ chết!
TÊN THỢ – Thái tử thật là khôn ngoan.
THÁI TỬ:
– Vì có mấy chuyến thuyền bị bão, chúng nhất định giữ ta lại suốt đời ở đây, không còn bao giờ trông thấy nước non, cha mẹ, hoàng phi nữa. Ta cũng đành lòng, miễn là chúng cứ xây đài. Ta chờ ngày chúng nó chết.
TÊN THỢ:
– Bẩm Thái tử, có tiếng người. (Có tiếng phó Độ hát: Buồn trông con nhện chăng tơ, nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?) Xin Thái tử đừng nói nữa.
THÁI TỬ:
– Mi theo ta, đi xem chỗ khác. Đêm hè nóng nực ta nhớ nước không sao ngủ được. (Họ ra, trong khi bọn phó Cõi ở cửa Khải hoàn đi vào).
(Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng, NXB Kim Đồng, 2020)
————-
(1) Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với Thủ đô.
Dòng nào nói lên các sự việc trong đoạn trích kịch bản Vũ Như Tô xây Cửu Trùng đài?
Lựa chọn một trả lời để xem Đáp án chính xác Báo sai đáp án hoặc câu hỏi |
A. Thị Nhiên tới thăm chồng- Vũ Như Tô nơi xây Cửu Trùng đài 0 % | 0 phiếu |
B. Cuộc nói chuyện Thị Nhiên với Vũ Như Tô, Thái tử Chiêm Thành với tên thợ Chiêm thành nơi xây Cửu Trùng đài. 0 % | 0 phiếu |
C. Âm mưu của Thái tử Chiêm Thành với Vũ Như Tô. 0 % | 0 phiếu |
D. Thái tử Chiêm Thành bàn mưu kế với tên thợ nơi xây Cửu Trùng đài 0 % | 0 phiếu |
Tổng cộng: | 0 trả lời |
Trắc nghiệm liên quan
- (…) VŨ NHƯ TÔ – Cảnh ngộ chúng tôi có khác chi cảnh ngộ bà? Có phần khổ nhục hơn nữa. Chế độ thì nghiệt ngã vô lý: nhà không cho làm cao, áo không cho mặc đẹp. Ai xây một kiểu nhà mới khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém. Thành thử ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi) Tóm tắt tác phẩm Người mẹ cầm súng Truyện viết về cuộc đời và gương chiến đấu của chị Nguyễn Thị Út Tịch, anh hùng lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh trong kháng chiến chống Mỹ. Từ ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Bất khuất như anh (Sống như anh -Trần Đình Vân) Về tác phẩm Sống như anh Nguyễn Văn Trỗi (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một liệt sĩ, chiến sĩ Cộng sản đã thực hiện vụ ám sát không thành nhằm vào phái đoàn quân sự cao cấp do Bộ trưởng ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Miếng ngon Hà Nội Vũ Bằng Kỳ lạ đến thế là cùng, Hà Nội ạ! Hà Nội… ngon… quá xá! Hà Nội ngon không mãi chỉ ngon về những miếng ngon đặc biệt, nhưng ngon từ cách ăn uống ngon đi, ngon từ cách rao hàng quà ngon xuông, ngon từ cách trình bày ngon tới, ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Tờ hoa Nguyễn Tuân Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966 Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc ... (Ngữ văn - Lớp 11)
Trắc nghiệm mới nhất
- Tình yêu – Dòng sông Vũ Quần Phương Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em Sông lượn khúc lượn dòng mà đến biển Bờ bãi loi thoi xóm làng ẩn hiện Đời sông như đời người trên sông Đời anh quen với lũ với dông Với gió chạy cát bay, đá ngầm vực xoáy Thuyền êm ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi) Tóm tắt tác phẩm Người mẹ cầm súng Truyện viết về cuộc đời và gương chiến đấu của chị Nguyễn Thị Út Tịch, anh hùng lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh trong kháng chiến chống Mỹ. Từ ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Bất khuất như anh (Sống như anh -Trần Đình Vân) Về tác phẩm Sống như anh Nguyễn Văn Trỗi (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một liệt sĩ, chiến sĩ Cộng sản đã thực hiện vụ ám sát không thành nhằm vào phái đoàn quân sự cao cấp do Bộ trưởng ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Bình minh gợi lại những bình minh Sergei Yesenin Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương… Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất Nhớ mẹ hiền già lão, yêu thương. ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Xuân không mùa Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng. Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng; Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ, Chim trên cành há ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- THÚY KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Tóm tắt Truyện Kiều * Gặp gỡ và đính ước Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng gia đình trung lưu, sống trong cảnh êm đềm cùng hai em Thúy Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân Thúy ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- MÒ SÂM PANH (Nam Cao) Chú bếp Tư rất thận trọng về vấn đề giữ vệ sinh. Ông thường nói rằng: Khí hậu ở đây chẳng được lành; những người chưa quen với thủy thổ miền nhiệt đới, đến đây mà chẳng biết giữ thân, khó khỏi chết vì nguy hiểm ấy truyền nhiễm ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi - Trích) (Lược phần đầu: Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ – nguy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con ... (Ngữ văn - Lớp 11)
- Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã ... (Ngữ văn - Lớp 11)