Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài vợ chồng A phủ 

Phân tích bài vợ chồng A phủ 
4 trả lời
Hỏi chi tiết
92
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài vợ chồng A phủ là một bài văn ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, được viết vào năm 1991. Bài văn này kể về một cặp vợ chồng trẻ, sống trong một căn nhà nhỏ ở Hà Nội. Cả hai đều làm việc vất vả để kiếm sống, nhưng cuộc sống của họ vẫn khá khó khăn.

Bài văn này cho thấy sự khắc nghiệt của cuộc sống đối với những người lao động tại Việt Nam vào thời điểm đó. Những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, cộng với sự thiếu thốn về tài chính, đã khiến cho cuộc sống của vợ chồng A phủ trở nên đầy căng thẳng và mệt mỏi.

Tuy nhiên, bài văn cũng cho thấy sự đoàn kết và tình yêu thương giữa vợ chồng A phủ. Dù cuộc sống của họ khó khăn, họ vẫn luôn cố gắng hết sức để giúp đỡ lẫn nhau và vượt qua những khó khăn.

Bài văn cũng có ý nghĩa nhắn nhủ về tình yêu thương và sự đoàn kết trong gia đình. Dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, nhưng nếu có tình yêu và sự đoàn kết, mọi khó khăn đều có thể vượt qua.

Tóm lại, bài vợ chồng A phủ là một bài văn ngắn đầy ý nghĩa về cuộc sống và tình yêu thương trong gia đình. Bài văn này cho thấy sự khắc nghiệt của cuộc sống đối với những người lao động tại Việt Nam vào thời điểm đó, nhưng cũng nhắn nhủ về tình yêu và sự đoàn kết trong gia đình.
2
1
Hoàng Hiệp
12/06/2023 16:11:01
+5đ tặng

Tô Hoài là một tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Giăng Thề, Quê nghèo,...Tập truyện Tây Bắc cũng là một trong những thành tựu vô cùng xuất sắc, một lần nữa khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với giá trị nhân văn sâu sắc.

Truyện kể về cuộc sống của nhân vật Mị, một cô gái vùng núi Tây Bắc. Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo, biết chăm lo giúp đỡ gia đình. Nhưng số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ truyền kiếp của gia đình. Có lẽ, trong xã hội lúc bấy giờ, có vô số người đang phải chịu cảnh trái ngang như Mị vậy, bởi hình thức cho vay nặng lãi của bọn người như Pá Tra mà họ phải dùng cả cuộc đời, thậm chí đánh đổi tương lai và hạnh phúc của bản thân để trả.

Ngày về làm dâu, Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức, đau khổ đều mình nàng gánh chịu. Đau đớn thay cho phận đàn bà, phận con nợ hẩm hiu với cuộc sống lầm lũi, trước kia Mị trẻ đẹp yêu đời bao nhiêu thì giờ đây càng tồi tệ, thê thảm bấy nhiêu: "Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc", có lúc Mị chỉ muốn dùng nắm lá ngón mà tự tử, kết thúc cuộc đời khổ nhục, nhưng vì nghĩ đến bố, nàng đành ngậm ngùi cam chịu. Tình thân chính là thứ duy nhất khiến Mị cố gắng để chịu đựng, bởi hơi ai hết, Mị hiểu cha nàng đã khổ quá nhiều rồi. Những vất vả, công việc nặng nhọc nơi nhà thống lý đều một tay Mị làm, con dâu mà không khác con ở là bao.

Lâu dần, Mị quen với cái khổ, rồi cũng chẳng màng gì nữa, cứ thế lầm lũi qua ngày: “Mị quên với cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi". Bao công việc giặt đay, bẻ bắp, hái thuốc phiện,..Mị đều làm mà không một lời than vãn, mà có than vãn cũng chẳng ai quan tâm đến.

Đau khổ về thể xác, tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, có điều gì buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải người mình thương, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, lấy gì làm người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài: "Mỗi ngày Mị càng không nói....rùa nuôi trong xó cửa". Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, chịu bao bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn.

Dường như, lúc này đây, Mị đang phó mặc cho số phận mình vậy. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta thấy xót thương, đồng cảm và căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn bất công của xã hội của đã đẩy con người đến đường cùng tăm tối.

Tuy sống cam chịu, lầm lũi nhưng bên trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống mãnh liệt chỉ chực chờ để bụng toả. Khi xưa Mị là cô gái trẻ yêu đời, khao khát tự do, có niềm tin yêu cuộc sống. Sức trẻ, khát vọng hạnh phúc ấy không lụi tắt mà chỉ bị kìm xuống bởi những bất công, bạo tàn. Để rồi vào đêm tình mùa xuân, khi khắp vùng trời tây bắc đang chào đón mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lòng Mị lại bồi hồi rạo rực với những kỉ niệm xưa: "Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi.

Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi". Tiếng sáo đã thôi thúc Mị tiếp tục đứng lên, tiếp tục sống, thôi thúc bao nỗi khát khao trong lòng nàng. Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa "Mị thấy phơi phới trở lại". Rồi Mị tìm đến nơi góc nhà, lấy ống mỡ bỏ vào đèn thắp lên thứ ánh sáng le lói, thứ ánh sáng của niềm tin nơi tăm tối, ngục tù.

Nhưng rồi, thật tàn nhẫn, tên A Sử tàn ác kia đã đứng trước mặt Mị, hắn không cho nàng đi chơi, hắn trói nàng vào cột nhà bằng những sợi đay rừng. Chính hắn đã dùng bàn tay tàn ác kia trói buộc cuộc đời nàng, giờ đây đến cả điều ước đơn giản muốn được đi chơi xuân cũng bị hắn vùi dập. Lúc này đây là nỗi đau thể xác đang hành hạ nàng nhưng lòng Mị vẫn đang mê say với tiếng sáo tha thiết kia. Có những phút Mị vùng bước đi nhưng không thể làm gì khác, thực tại quá phũ phàng đã bóp nghẹt một lần nữa khát vọng cuộc đời nàng.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị quay trở lại với cuộc sống của “con trâu con ngựa”, lầm lũi cam chịu. Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứa đứng ngoài sân, Mị cũng dửng dưng vô cảm bởi lẽ cảnh người bị trói, bị hành hạ nhà thống lí đã quá quen thuộc trong nhận thức của Mị. Tỉnh dậy trong ánh lửa bập bùng, Mị thấy dòng nước mắt đang rơi dài trên má A Phủ.

Giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại ngày trước, nàng cũng từng phải chịu nỗi hành hạ, đớn đau biết bao nhiêu rồi nàng nhớ đến chuyện người đàn bà xưa kia bị trói chết đứng trong nhà, rồi nàng lo sợ rằng có lẽ đêm nay, đêm mai nữa thì người kia cũng sẽ phải chịu chết thôi. Mị chìm vào suy nghĩ, sự đấu tranh nội tâm đưa Mị đi đến hành động quyết liệt là cắt dây trói cho A Phủ.

Dù biết đây là hành động có thể khiến bản thân bị trọng tội, song Mị đã chấp nhận hi sinh chính mình để cứu lấy con người tội nghiệp kia. Đây là một hành động thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của con người trước tội ác, bất công đồng thời thấy được tình thương yêu giữa những người nghèo khổ dành cho nhau. Cũng vào lúc ấy, Mị đã quyết định đi theo A Phủ, đó là một sự lựa chọn đúng đắn để Mị giải thoát cho cuộc đời mình.

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta mới thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc khắc họa tâm lí nhân vật. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ đều gắn với những tính cách, những chuyển biến tâm lí đầy tinh vi của nhân vật được thể hiện rõ nét. Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực.

Ngoài ra, Tô Hoài còn đưa đến một thông điệp về giá trị sống: Trong cực khổ, bần hàn vẫn cần cố gắng, sống và quyết tâm vươn tới những chân trời tự do, tin tưởng ở tương lai tươi đẹp.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Đức Anh
12/06/2023 16:11:55
+4đ tặng

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo đánh thép tội ác của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa rất thành công cả về hình thức lẫn tâm hồn.

Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn.

Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết.

Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.

Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

2
1
Tâm Như
12/06/2023 16:12:06
+3đ tặng

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN , ông đã để cho thế hệ sau số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là 1 trong số truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông . Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc và cũng góp phần thể hiện sự bạo tàn của chế độ phong kiến ở miền núi lúc bấy giờ qua đó lên án tố cáo chế độ bạo tàn đó.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ lấy ấn tượng bởi cách mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý.“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” . Lẽ ra Mị là một người vợ của một nhà giàu có thì phải có cuộc sống sung túc nhưng qua cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Từ những miêu tả đó khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng. Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp ,có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Là một cô gái nhạy cảm giàu khát khao yêu thương , được yêu, nhưng vì hoàn cảnh, Mị buộc phải bán mình cho nhà thống lí về làm vợ của A Sử và từ đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh.

Không chỉ nói tới nỗi đau thể xác của Mị mà còn khắc họa cả nỗi đau về tinh thần và tâm hồn của Mị. Một cô gái mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô .

Chính vì vậy có những lúc Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha .. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn khi sống kiếp người dùng mình để trả nợ cho gia đình cho cha mà chịu bán mình và sống cuộc đời cơ cực . Bởi chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn và đó cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .

Dù không một chút tình cảm với A sử nhưng với Mị thì A Sử vẫn là chồng Danh nghĩa và Mị phải phục tùng hắn chứ không phải là chăm sóc của một người vợ dành cho người chồng của mình nữa. Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du : quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.nhưng phũ phàng thay A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du.

Mị một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của chuyên là người gỡ nút thắt của truyện, ở cô một người con gái nhỏ bé nhưng có sức sống mãnh liệt. Mị và A phủ cuối cùng cũng tìm tới với một cuộc sống tự do hào phóng ở một vùng đất mới. Đây là cách mà Tô Hoài muốn thực hiện.

Những lời văn như chính tác giả đang chứng kiến mọi thứ, tuy nhẹ nhàng nhưng tỉ mỉ chi tiết và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Truyện còn góp phần thể hiện 2 tư tưởng lớn đó là hiện thực và nhân đạo. Vợ chồng A Phủ đã phản ánh được một cách khá chân thực và sinh động bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng Điện Biên. Cách khai thác của tác giả đã tạo ra thành công có ý nghĩa khai phá về đề tài miền núi trong văn học Việt Nam.

Qua tác phẩm người đọc thấy được trong vùng giặc Pháp chiếm đóng thời bấy giờ vẫn tồn tại chế độ lang đạo Thổ Ty, và nó còn khắc nghiệt tàn ác hơn nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở miền xuôi. Hiện thân của chế độ lang đạo Thổ Ty dã man ấy chính là cha con nhà thống lý Pá Tra. Chúng đã lợi dụng cường quyền cùng hủ tục phong kiến miền núi để biến những người lao động thành nô lệ không công, lao động khổ sai như trâu ngựa để làm giàu cho chúng.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến miền núi mà còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm đóng Tây Bắc..

Không chỉ dừng lại với giá trị hiện thực, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc. Từ chính niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người,sự trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Và trong tác phẩm chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới, nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích áp bức khổ ,xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình. Cách kết truyện khi Mỵ và A phủ tháo chạy,đi tìm miền đất mới .. là một trong số những nét tiêu biểu này.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ , tác giả đã góp phần tái hiện một cách chân thực và sâu sắc những giá trị về cuộc sống, những triết lí sống nhân văn, những sụ cảm thông của chính tác giả với đứa con tinh thần của mình.Qua tác phẩm, Tô Hoài đã lên án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược; và ông đặc biệt thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ.

1
1
Khánh
12/06/2023 16:12:08
+2đ tặng

Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là kết quả của tác giả khi được cử đi viết về các căn cứ cách mạng và đời sống ở vùng mới giải phóng. Khi đi sâu vào đời sống của người dân vùng núi, Tô Hoài đã cảm nhận được một tinh thần bất khuất và kiên cường kì lạ của đồng bào nơi đây. Và Vợ chồng A Phủ cũng là một bức tranh đen tối về số phận của những người phụ nữ dân tộc thiểu số. Đặc biệt, qua đoạn trích  "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết [..] bao giờ chết thì thôi. " tác giả đã tố cáo sự độc ác, tàn bạo của giai cấp thống trị.

Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả chân thực số phận bất hạnh của Mị dưới cái bóng của chế độ thực dân phong kiến chúa đất. Từ đó, ta thấy được cách nhìn về cuộc sống và con người của nhà văn Tô Hoài.

Tô Hoài đã từng quan niệm rằng:" Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm ". Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện, diễn biến truyện, việc xây dựng nhân vật chính là dụng ý của nhà văn để thể hiện rõ được nội dung và tình cảm.

Trong tác phẩm" Vợ Chồng A Phủ "Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài" thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống" không bằng con trâu con ngựa "; và bị hủy diệt về tinh thần" mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, trở thành một người đàn bà bị tước mất linh hồn. Trong đoạn văn trên, Tô Hoài đã tái hiện lại phần nào cuộc sống khổ cực ấy của Mị.

Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết Mị còn chẳng màng nghĩ tới nữa, bởi cuộc sống của Mị bây giờ chẳng khác gì kiếp nô lệ, súc vật:

Ngay từ câu văn đầu tiên, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí:" Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau ", chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Nếu đó là những năm tháng hạnh phúc thì đâu có gì để nói, nhưng đây lại là những năm tháng Mị phải kéo lê cuộc sống của mình trong đau khổ, trong sự xói mòn, mất mát dần của cảm xúc tâm hồn. Điều đáng ngạc nhiên là đến chính Mị cũng chẳng còn nhớ cuộc sống trong trốn địa ngục trần gian ấy đã diễn ra trong bao nhiêu năm nữa" Mị cũng không nhớ nữa "– phải chăng, cô đã mất hết nhận thức về thời gian, không gian? Cái khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà gợi lên biết bao thương xót, ngậm ngùi.

Trong sự chảy trôi ấy của thời gian hiện lên cái chết của con người" bố Mị chết ": Sự chảy trôi dai dẳng ấy của thời gian như kéo dài cái khổ, cái cực của những người lao động nghèo miền núi. Họ phải cam chịu và sống dưới cái trướngcủa bọn chúa đất miền núi ngày này qua tháng khác. Cuối cùng, cái khổ ấy kếtthúc thành cái chết. Chỉ với một câu văn ngắn, Tô Hoài đã dấy lên niềm đồng cảm của ngườiđọc về cuộc đời bất hạnh của những người lao động nghèo miền núi. Quả thực, nói như Nguyễn Minh Châu:" Nhà văn không tô đen hay bôi hồng cuộc sốngmà nhà văn chỉ làm rõ bộ mặt thật của nó ".

Ở những câu văn tiếp theo, một lần nữa hình ảnh nắm lá ngón xuất hiện" Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa ". Lần thứ nhất, khi Mị trốn về nhà và khóc nức nở với bố," Mị ném nắm lá ngón xuống đất.. Mị không đành lòng chết ". Mị làm vậy bởi lúc ấy, Mị còn có sự ràng buộc là phải sống để trả nợ cho bố. Bây giờ," Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tự nữa ". Phải chăng, Mị đã cam tâm sống kiếp nô lệ? Phải chăng, ý thức phản kháng trong Mị đã bị tê liệt? Thật chua xót làm sao, hóa ra, cái môi trường độc địa kia đã ngấm vào trong Mị, đau khổ đã đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần với nó, chấp nhận nó như một phần trong cuộc sống của mình" Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi ". Người đời thì quen ăn mặc sung sướng, Mị thì" quen khổ ", chua xót làm sao? Và càng chua xót hơn, khi cái sự" quen "trong vô thức ấy, nó đã làm thui chột luôn cả ý thức đấu tranh trong Mị. Ngay cả đến sự phản kháng yếu ớt cũng không còn. Còn đâu một cô Mị của lòng ham sống yêu đời? Nào đâu còn cô Mị sẵn sàng ăn lá ngón để tự tử, để chấm dứt kiếp đời nhục nhã?

Câu văn đánh dấu sự thay đổi trong tính cách và tâm trạng của Mị. Như vậy, do tác động của sự bóc lột mà bố con Pá Tra gây ra mà giờ Mị đã mất đingọn lửa sống và chẳng còn màng nghĩ tới sống chết nữa. Ba chữ" Mị quen khổ rồi "như chất chứa bao xót xa và phẩn uất. Hoàn cảnh tạo nên tính cách và tính cách tạo nên số phận. Từ mộtngười con gái tự do và yêu đời, cánh tay đen ngòm của cái khổ và cái ác đã tómlấy Mị và hút hết bao nhiêu là cái tốt, cái đẹp rồi nhả ra là một con người nhỏ bé, trơ lì và chai sạn. Đọc những câu văn này, ta càng cảm thấy thương và đồng cảm với số phận bất hạnh của Mị.

Nếu như Thúy Kiều bị Sở Khanh và Tú Bà lập mưu vào tròng để bắt nàng phải tiếp khác nàng chơi, Kiều đã đau đớn trong cảnh nhục nhã khi thân xác bị chà đạp, trở thành vật mua vui cho người khác:

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

Nhưng trong nỗi đau đoạn trường đó, Kiều vẫn là Kiều, vẫn ý thức được nỗi đau của bản thân, khao khát tiếng nói tri kỷ" Vui là vui gượng kẻo là/Ai tri âm đó mặn mà với ai? "Thì ở đây cô Mị lại hoàn toàn câm lặng. Nỗi đau và khổ đã chất chồng không còn đủ sức tê đi tái lại, nó đã chai dại và làm băng giá cả hồn người để người ta buông xuôi chấp nhận. Mị quen khổ rồi. Ôi sao đớn đau đến vậy?

Không những vậy, ở nhà thống lí Pá Tra, Mị còn bị bóc lột, vắt kiệt sức lao động, không khác gì súc vật. Đó cũng là lí do tại sao Mị lại" quen khổ rồi ":

Mị đã tự đẩy cuộc sống của mình ngang hàng với súc vật" Bây giờ thì Mị tưởngmình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi ". Nhà văn như nhập thân vào nhân vật để nói lên suy nghĩ của Mị. Và suy nghĩ đã ăn sâu trong Mị mấy năm nay, chính là Mị nghĩ mình cũng như một con vật nuôi trong nhà thống lí. Con vật phải chịu kiếp đọa đày dưới đòn roi của chủ, phải làm việc khổ sai và không thể phản kháng, kêu ca. Mị cũng thế. Phải khổ, phải cam chịu đến thế nào, Mị mới nghĩ mình chỉ như loài vật như thế? Câu văn chất chứa biết bao nỗi xót xa, thương cảm mà Tô Hoài dành cho nhân vật của mình.

Gương mặt chính là sự phản chiếu của suy nghĩ, của tâm hồn. Suy nghĩ cam chịu, tâm hồn cô cảm đã khiến cho vẻ mặt của Mị mới buồn bã làm sao:" Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. "Trên khuôn mặt lúc nào cũng chỉ biết cúi xuống ấy, làm sao thấy được một nét vui tươi? Trên khuôn mặt không bộc lộ một chút cảm xúc, nghĩ suy ấy, làm sao nhận ra một tia hạnh phúc? Chỉ có những người không thể vui, không thể hạnh phúc, mới có vẻ mặt đó. Đó là khuôn mặt nói lên sự lạnh lẽo, vô cảm của đời sống tâm hồn. Khuôn mặt héo hắt của một tâm hồn lay lắt.

Khi sống không còn cảm xúc, con người ta khác ci một cỗ máy lặp đi lặp lại theo quy trình? Hoàn cảnh sống khắc nghiệt thực sự đã biến Mị thành cỗ máy. Nên không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại miêu tả Mị với những suy nghĩ và hành động lặp đi lặp lại:" Lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. "Vậy là mị chỉ nhớ về công việc, những công việc giống nhau, chẳng có gì mới mẻ, chẳng có gì đáng để suy nghĩ, bận tâm thêm. Mị chẳng muốn nghĩ thêm hay chẳng thể nghĩ thêm? Dù thế nào thì những suy nghĩ lặp lại ấy đã nói lên sự vô cảm của đời sống tâm hồn. Người ta có thể nghèo về vật chất, nhưng nghèo đến cả suy nghĩ, cảm xúc nữa thì khốn khổ biết bao!

Tuy nhiên, ẩn đằng sau những câu văn này không chỉ đơn thuần là miêu tả trạng thái hiện tại của Mị. Sự xuất hiện của Mị là tiếng búa đinh óc, là lời tố cáo đanh thép của Tô Hoài về tội ác của bọn chúa đất khiến con người ta lâm vào" cùng đường tuyệt lộ ". Kim Lân từng quan niệm" Nhà văn phải viết như chơi, viết bằng cả tấm lòng của mình, nhưng phải hướng vào cái đẹp và cái thật. Khi nhà văn phát hiện ra cái gì không thật và không đẹp phải biết bất bình và lên tiếng ". Quả thật là vậy, có lẽ khi viết nhữngdòng văn này, Tô Hoài cũng không khỏi xót xa và căm phẫn thay cho nhân vật của mình. Từ ấy, nhà văn như muốn người đọc cùng buồn, cùng thương cho Mị. Suy cho cùng," con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú. Nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người "(Đặng Thai Mai).

Văn học dân gian miền núi cũng từng có tác phẩm kể lại những đau khổ, vất vả, tủi nhục, uất hận của phận làm dâu trong xã hội cũ:

" Như con trâu nặng nề đeo ách,

Như thân trâu măng buộc cọc tre,

Kéo cày từ sớm đến khuya,

Phận làm dâu chẳng có mùa nghỉ ngơi. "

(" Tiếng hát làm dâu "– Dân tộc Hmông)

Đoạn thơ như nói hộ tiếng lòng của Mị đang phải chịu những bi kịch ngậm ngùi không thể thốt thành lời.

Chưa hết, bị bóc lột sức lao động thôi chưa đủ, Mị còn bị chà đạp về quyền sống khi Mị sống" không bằng con trâu con ngựa ":

Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận" trâu ngựa ". Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ ngày về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương" bẻ bắp "," hái củi "," bung ngô ", lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con ngựa đôi khi còn được" đứng gãi chân, nhai cỏ ", còn Mị phải vùi vào làm việc" cả đêm, cả ngày ".

Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Thậm chí còn không bằng con ngựa, con trâu. Mị hiện lên như một công cụ lao động sống lặng lẽ, cam chịu bị bóc lột, đọa đày về thân xác.

Còn nữa, không chỉ bị vắt kiệt sức lao động, quyền sống là con người cũng không có, Mị còn bị hủy diệt về tinh thần:

Bao nhiêu khổ đau ở nhà thống lí đã biến Mị - một cô gái xinh đẹp, yêu đời mấy năm về trước bỗng trở thành một người đàn bà lầm lũi, vô cảm. Lúc nào Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi." Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Mị suốt đời câm lặng, chịu đựng bị đè nén, bị áp bức như con rùa. Đằng sau sự so sánh này là niềm thương cảm thấm thía của nhà văn về một kiếp người hóa thành kiếp vật.

Trong vô vàn lời ca than thân xưa nay khiến người đọc day dứt khôn nguôi về thân phận con người:

Thương thay thân phận con rùa

Xuống sông đội đá, lên chùa đội bia

Hay:

Thương thay lũ kiến tí ti

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi

Còn lời than thân nào đau đớn và chua chát lớn hơn một cuộc đời đắng ngắt, mặn chát như cuộc đời Mị hay không?

Ở nhà Pá Tra, Mị thực sự là một tù nhân. Căn buồng âm u tăm tối với cái ô cửa số bé bằng bàn tay lúc nào" trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng ". Thực sự là hình ảnh của một nhà ngục. Nó đã giam hãm tâm hồn và tuổi xuân của Mị. Nó đã làm tê liệt con người ý thức trong Mị, chỉ còn nơi Mị cái suy nghĩ tội nghiệp, đáng thương.

Ta liên tưởng đến nàng Kiều khi xưa cũng bị giam hãm số phận tại lầu Ngưng Bích:

" Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. "

Chỉ có điều, nếu Thúy Kiều còn được cảm nhận cái" bốn bề bát ngát xa trông "thoáng đãng của không gian thì Mị lại bị giam hãm trong căn phòng chật hẹp và tù túng. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù nhân phải chịu án tù chungthân. Nhà thống lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và tình người.

Ở trong ngục tù ấy," Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi ". Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn bên trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Mị" trông ra đến bao giờ chết thì thôi "dường như là Mị đang hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay chăng? Câu văn như vẽ ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta muốn giảithoát lại không thể thoát giải, đành phải bất lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người đọc. Liệu rằng số phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi sổ lồngđể giải thoát cho bản thân mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suyngẫm và trăn trở trong lòng người đọc. Nói" Văn học là nhân học "như M. Gorki, quả không sai.

Bằng việc sử dụng nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hấp dẫn kết hợp việc vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, cùng những chi tiết vô cùng đặc sắc.. Tô Hoài đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị với nỗi thống khổ trong kiếp nô lệ nhà thống Pá Tra: Bị bóc lột sức lao động, bị chà đạp về quyền sống, bị hủy diệt về tinh thần.

Qua đoạn trích, ta cũng thấy được cách nhìn về cuộc sống và con người của nhà văn. Trước hết, về cách nhìn về cuộc sống: Là cái nhìn hiện thực khi nhà văn muốn thể hiện một cách chân thực bức tranh xã hội thực dân, phong kiến miền núi với những mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ phong kiến thực dân với quần chúng lao động. Đúng như quan niệm của nhà văn" Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật ". Tiếp đến, về cách nhìn về con người: Là cái nhìn nhân đạo. Trong đó, Sê-khốp đã từng khẳng định:" Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy ". Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi người cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà văn. Bởi tác phẩm văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm chứa tinh thần nhân văn sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người. Xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu và tình yêu thương với mảnh đất và con người miền núi, từ hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay nhà văn đã hướng đến những người lao động bình dị, chất phác bằng tình cảm sâu sắc, mộc mạc, chân thành, yêu thương và cảm phục. Ngược lại, đối với những nhân vật phản diện như A Sử và Thống lí Pá Trá, nhà văn sử dụng những ngôn từ chân thực, mang tính phê phán mạnh mẽ sự lộng hành và ác độc của gia đình nhà thống lý. Người đọc cũng có thể cảm nhận được sự trân trọng, tin yêu của nhà văn với vẻ đẹp của những người dân miền núi. Điển hình, trong mắt Tô Hoài, Mị là người hội tụ của nhiều vẻ đẹp từ ngoại hình, đến tài năng và cả vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt. Hơn nữa, với cái nhìn đầy yêu thương, nhà văn đã tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình, giải thoát cho đồng bào miền núi bằng ánh sáng cách mạng, khẳng định, tin tưởng vào khả năng, sức mạnh, tương lai tốt đẹp của người dân miền núi. Đồng thời, cách nhìn mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang lại chất lượng mới cho văn học kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài.

" Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết "(Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng" Vợ chồng A Phủ "là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo