Đố vui tổng hợp Đố vui IQ Đố vui Tư duy Logic Gửi đố vui của bạn
Một mặt đôi mày, Một gầy một béo, Một năm một tháng, Một ngày ba lần (Nhất diện lưỡng mi, Nhất sấu nhất phì, Nhất niên nhất nguyệt, Nhất nhật tam kỳ) Là chữ gì?
nguyễn phương anh | Chat Online | |
09/04/2017 16:01:52 |
3.412 lượt xem
Câu đố chữ thời xưa:
Một mặt đôi mày
Một gầy một béo
Một năm một tháng
Một ngày ba lần.
(Chữ Hán:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ)
Một mặt đôi mày
Một gầy một béo
Một năm một tháng
Một ngày ba lần.
(Chữ Hán:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ)
Trả lời (5)
Thưởng Thiện Phạt Ác | Chat Online | |
09/04/2017 16:04:18 |
Chữ Bát
Một lần nọ, người Nguyên lại giở trò đánh đố chữ. Họ liền viết bốn câu thơ sau và thách Mạc Ðĩnh Chi giải:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ
Có nghĩa là: Một mặt đôi mày, một gầy một béo, một năm một tháng, một ngày ba lần.
Thật là ngô nghê khó hiểu, vậy mà Mạc Ðĩnh Chi chỉ đưa mắt ngó qua đã có thể giảng rằng đó là chữ bát. Vì chữ bát tựa đôi lông mày; chữ bát có một nét to một nét nhỏ; chữ bát là tám: mỗi năm chỉ có một tháng tám; chữ bát là tám cũng đồng âm với chữ bát là bát đựng đồ ăn.; do đó mỗi ngày dùng bát ăn ba lần.
Thế là cả mấy lần chơ chữ, đều bị Mạc Đĩnh Chi đối đáp trôi chảy cả, Người Nguyên lấy làm phục ông lắm và thường có ý ví ông như Án Tử đời Xuân Thu.
Toàn bộ câu chuyện:
Mạc Ðĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Ðộng, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sống vào khoảng đầu thế kỷ XIV, không rõ năm sinh và mất.
Tục truyền làng ông có một gò đất lớn, vốn là khu lăng tẩm đã lâu đời, cây cối mọc um tùm, rậm rạp thành rừng, hươu khỉ rất nhiều. Một bữa mẹ ông vào đó kiếm củi, bị một con khỉ độc hiếp rồi có mang. Bố ông tức giận, cải trang làm đàn bà đi kiếm củi và giết chết con khỉ ấy. Ðược vài hôm, ở chỗ xác con khỉ bỗng thấy mối đùn lên thành một ngôi mộ. Sau đấy ít lâu thì bố ông mất, lúc hấp hối dặn người nhà chôn mình vào chỗ mộ con khỉ.
Khi Mạc Ðĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Người làng thường bảo đó là con tinh khỉ nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Ðời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), ông đi thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mắt mũi xấu xí nên nhà vua không muốn cho ông đỗ. Ông bèn dâng bài phú" Ngọc tỉnh lên "( Hoa sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Trong bài phú có những câu như:
... Phi đào lý chi thô tục,
phi mai trúc chi cô hận,
phi tăng phòng chi cẩu kỷ,
phi Lạc thổ chi mẫu đơn,
phi Ðào lệnh đông ly chi cúc,
phi Linh Quân cửa uyển chi lan.
Nãi Thái Hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên...
Nghĩa là:
Chẳng phải như đào trần, lý, tục ; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy
Cẩu kỳ phòng tăng khó sánh ; mẫu đơn đất Lạc nào bì
Giậu đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân, lan sá kể gì
Ðó là giống sen trong giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa
Vua xem xong bài phú, tỏ ý rất cảm phục, liền cho Mạc Ðĩnh Chi đỗ trạng nguyên . Về sau ông làm tới chức tả bộc xạ ( thượng thư) và là ông quan thanh liêm, được nhân dân rất yêu mến
***
Hồi sang sứ triều Nguyên, một hôm Mạc Ðĩnh Chi cùng với phái bộ triều Nguyên đi chơi. Tới gần một cái cầu, chẳng may Trạng Việt nam bị sa hố, phái bộ đều chạy lại để đỡ ông dậy. Ðể đùa vui, họ ra cho ông một vế câu đối:
Can mộc, hoành cừ, lục giả tương như tư đạo
(Nghĩa là: Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng)
Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên người ghép lại (1).
Mạc Ðĩnh Chi nhìn quanh nom thấy ở bên kia sông có cái đình dưới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà đối:
Ðại đình, anh thạch, vọng chi nghiễm nhược Thai sơn
(Nghĩa là: Ðình to, đá vững, nhác nom như thể Thiên Thai)
Câu này cũng dùng toàn tên người ghép lại như ở câu trên (2) mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều.
Một lần nữa, người Nguyên lại phải khâm phục tài văn học của Mạc Ðĩnh Chi.
Chú thích:
- Can Mộc: Ðoàn Can Mộc- một nhân vật đời Chiến quốc
- Hoành Cừ: tên hiệu của Trương Tải- một triết gia đời Bắc Tống
- Lục Gỉa: người nước Sở, giỏi biện luận, từng giúp Hán Cao Tổ
- Tương Như: Lạn Tương Như, một nhân vật nổi tiếng đời Chiến quốc.
- Tự Ðạo: Gỉa Tự Ðạo, người nước Tống, một quyền thần chuyên chế.
- Ðại đình: một biệt hiệu của Thần Nông
- An Thạch: Vương An Thạch, một nhân vật nổi tiếng đời Tống
- Vọng Chí: người đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên đế.
***
Hồi Mạc Ðĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên thường hay cưỡi lừa đi rong chơi các phố.
Một hôm, mải ngắm cảnh hàng phố, đang nghênh ngang trên lưng lừa, bỗng chạm phải ngựa của một người ở phía trước mặt đi tới. Người ấy tức mình liền đọc một câu rằng:
Xúc ngã kỵ mã, Ðông di chí nhân dã, Tây di chí nhân dã?
(nghĩa là: Chạm ngựa ta cưỡi, là người rợ phương Ðông hay là người rợ phương Tây?)
Từ chữ "đông di" trở đi là lấy ở sách Mạnh Tử, có ý khinh rẻ, cho Mạc Ðĩnh Chi là kẻ mọi rợ, man di.
Mạc Ðĩnh Chi thấy người đó có thái độ kẻ cả như vậy, bực lắm, bèn đáp lại rằng:
Át dư thưa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư?
(Nghĩa là: Ngăn lừa ta ngồi, hỏi người phương Nam mạnh hay người phương Bắc mạnh?)
Từ chữ "Nam phương" trở đi là lấy ở sách Trung Dung. Câu này lời lẽ rất ngang tàng, ý bảo rằng chưa chắc người phương Bắc đã hẳn là mạnh hơn người phương Nam, chưa biết "mèo nào cắn mỉu nào?".
Người Nguyên nghe Mạc Ðĩnh Chi trả lời, biết gặp phải tay cứng cổ, ra roi cho ngựa đi thẳng, không dám hoạch hoẹ gì nữa.
***
Năm Hưng Long thứ 16 (1308), Mạc Ðĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, ông có hẹn ngày ấy ngày nọ thì phái bộ sẽ đến cửa ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa đón. Chẳng may hôm lên đường gặp phải mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì trời tối, cửa ải đã đóng. Mạc Ðĩnh Chi nói mãi, người Nguyên cũng không chịu cho qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì mở cửa ải:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
Nghĩa là:
Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có mười một chữ mà riêng chữ quan nhắc lại tới bốn lần. Chữ quá nhắc lại 3 lần. Mạc Ðĩnh Chi cảm thấy rất khó đối, nhưng nếu im lặng thì e mất thể diện. Ông bèn nhân cái chuyện khó đối ấy, ứng khẩu đọc lên một câu rằng:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
Nghĩa là:
Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.
Tưởng đã bí, thế mà lại hoá ra có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu Mạc Ðĩnh Chi là có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi.
***
Mạc Ðỉnh Chi sang sứ Triều Nguyên, lúc vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử tài văn chương của Trạng và cũng muốn dò tiết khí của viên bồi thần bằng một câu đối. Vua Nguyên đọc:
"Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ"
Nghĩa là: Mặt trời vừa lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng.
Mạc Ðỉnh Chi biết là Vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời, và coi Việt Nam như là mặt trăng, ban ngày nhất định phải bị mặt trời thôn tính, ông bèn ứng khẩu đối ngay:
Nguyệt cung linh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
Nghĩa là: Trăng là cung; sao là đạn, chiếu tối bắn rơi mặt trời
Câu ra đã giỏi mà câu đối lại còn tài hơn. Vua Nguyên nghe đối biết mình đã bị trả miếng rất đau, nhưng cũng hết sức kính phục Mạc Ðỉnh Chi, bèn thưởng cho Trạng Việt Nam rượu ngon và rất nhiều vàng lụa.
***
Một lần nọ, người Nguyên lại giở trò đánh đố chữ. Họ liền viết bốn câu thơ sau và thách Mạc Ðỉnh Chi giải:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ
Có nghĩa là: Một mặt đôi mày, một gầy một béo, một năm một tháng, một ngày ba lần.
Thật là ngô nghê khó hiểu, vậy mà Mạc Ðỉnh Chi chỉ đưa mắt ngó qua đã có thể giảng rằng đó là chữ bát. Vì chữ bát tựa đôi lông mày; chữ bát có một nét to một nét nhỏ; chữ bát là tám: mỗi năm chỉ có một tháng tám; chữ bát là tám cũng đồng âm với chữ bát là bát đựng đồ ăn.; do đó mỗi ngày dùng bát ăn ba lần.
Thế là cả mấy lần chơ chữ, đều bị Mạc đỉnh Chi đối đáp trôi chảy cả, Người Nguyên lấy làm phục ông lắm và thường có ý ví ông như Án Tử đời Xuân Thu.
Một lần nọ, người Nguyên lại giở trò đánh đố chữ. Họ liền viết bốn câu thơ sau và thách Mạc Ðĩnh Chi giải:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ
Có nghĩa là: Một mặt đôi mày, một gầy một béo, một năm một tháng, một ngày ba lần.
Thật là ngô nghê khó hiểu, vậy mà Mạc Ðĩnh Chi chỉ đưa mắt ngó qua đã có thể giảng rằng đó là chữ bát. Vì chữ bát tựa đôi lông mày; chữ bát có một nét to một nét nhỏ; chữ bát là tám: mỗi năm chỉ có một tháng tám; chữ bát là tám cũng đồng âm với chữ bát là bát đựng đồ ăn.; do đó mỗi ngày dùng bát ăn ba lần.
Thế là cả mấy lần chơ chữ, đều bị Mạc Đĩnh Chi đối đáp trôi chảy cả, Người Nguyên lấy làm phục ông lắm và thường có ý ví ông như Án Tử đời Xuân Thu.
Toàn bộ câu chuyện:
Mạc Ðĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Ðộng, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sống vào khoảng đầu thế kỷ XIV, không rõ năm sinh và mất.
Tục truyền làng ông có một gò đất lớn, vốn là khu lăng tẩm đã lâu đời, cây cối mọc um tùm, rậm rạp thành rừng, hươu khỉ rất nhiều. Một bữa mẹ ông vào đó kiếm củi, bị một con khỉ độc hiếp rồi có mang. Bố ông tức giận, cải trang làm đàn bà đi kiếm củi và giết chết con khỉ ấy. Ðược vài hôm, ở chỗ xác con khỉ bỗng thấy mối đùn lên thành một ngôi mộ. Sau đấy ít lâu thì bố ông mất, lúc hấp hối dặn người nhà chôn mình vào chỗ mộ con khỉ.
Khi Mạc Ðĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Người làng thường bảo đó là con tinh khỉ nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Ðời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), ông đi thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mắt mũi xấu xí nên nhà vua không muốn cho ông đỗ. Ông bèn dâng bài phú" Ngọc tỉnh lên "( Hoa sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Trong bài phú có những câu như:
... Phi đào lý chi thô tục,
phi mai trúc chi cô hận,
phi tăng phòng chi cẩu kỷ,
phi Lạc thổ chi mẫu đơn,
phi Ðào lệnh đông ly chi cúc,
phi Linh Quân cửa uyển chi lan.
Nãi Thái Hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên...
Nghĩa là:
Chẳng phải như đào trần, lý, tục ; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy
Cẩu kỳ phòng tăng khó sánh ; mẫu đơn đất Lạc nào bì
Giậu đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân, lan sá kể gì
Ðó là giống sen trong giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa
Vua xem xong bài phú, tỏ ý rất cảm phục, liền cho Mạc Ðĩnh Chi đỗ trạng nguyên . Về sau ông làm tới chức tả bộc xạ ( thượng thư) và là ông quan thanh liêm, được nhân dân rất yêu mến
***
Hồi sang sứ triều Nguyên, một hôm Mạc Ðĩnh Chi cùng với phái bộ triều Nguyên đi chơi. Tới gần một cái cầu, chẳng may Trạng Việt nam bị sa hố, phái bộ đều chạy lại để đỡ ông dậy. Ðể đùa vui, họ ra cho ông một vế câu đối:
Can mộc, hoành cừ, lục giả tương như tư đạo
(Nghĩa là: Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng)
Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên người ghép lại (1).
Mạc Ðĩnh Chi nhìn quanh nom thấy ở bên kia sông có cái đình dưới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà đối:
Ðại đình, anh thạch, vọng chi nghiễm nhược Thai sơn
(Nghĩa là: Ðình to, đá vững, nhác nom như thể Thiên Thai)
Câu này cũng dùng toàn tên người ghép lại như ở câu trên (2) mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều.
Một lần nữa, người Nguyên lại phải khâm phục tài văn học của Mạc Ðĩnh Chi.
Chú thích:
- Can Mộc: Ðoàn Can Mộc- một nhân vật đời Chiến quốc
- Hoành Cừ: tên hiệu của Trương Tải- một triết gia đời Bắc Tống
- Lục Gỉa: người nước Sở, giỏi biện luận, từng giúp Hán Cao Tổ
- Tương Như: Lạn Tương Như, một nhân vật nổi tiếng đời Chiến quốc.
- Tự Ðạo: Gỉa Tự Ðạo, người nước Tống, một quyền thần chuyên chế.
- Ðại đình: một biệt hiệu của Thần Nông
- An Thạch: Vương An Thạch, một nhân vật nổi tiếng đời Tống
- Vọng Chí: người đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên đế.
***
Hồi Mạc Ðĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên thường hay cưỡi lừa đi rong chơi các phố.
Một hôm, mải ngắm cảnh hàng phố, đang nghênh ngang trên lưng lừa, bỗng chạm phải ngựa của một người ở phía trước mặt đi tới. Người ấy tức mình liền đọc một câu rằng:
Xúc ngã kỵ mã, Ðông di chí nhân dã, Tây di chí nhân dã?
(nghĩa là: Chạm ngựa ta cưỡi, là người rợ phương Ðông hay là người rợ phương Tây?)
Từ chữ "đông di" trở đi là lấy ở sách Mạnh Tử, có ý khinh rẻ, cho Mạc Ðĩnh Chi là kẻ mọi rợ, man di.
Mạc Ðĩnh Chi thấy người đó có thái độ kẻ cả như vậy, bực lắm, bèn đáp lại rằng:
Át dư thưa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư?
(Nghĩa là: Ngăn lừa ta ngồi, hỏi người phương Nam mạnh hay người phương Bắc mạnh?)
Từ chữ "Nam phương" trở đi là lấy ở sách Trung Dung. Câu này lời lẽ rất ngang tàng, ý bảo rằng chưa chắc người phương Bắc đã hẳn là mạnh hơn người phương Nam, chưa biết "mèo nào cắn mỉu nào?".
Người Nguyên nghe Mạc Ðĩnh Chi trả lời, biết gặp phải tay cứng cổ, ra roi cho ngựa đi thẳng, không dám hoạch hoẹ gì nữa.
***
Năm Hưng Long thứ 16 (1308), Mạc Ðĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, ông có hẹn ngày ấy ngày nọ thì phái bộ sẽ đến cửa ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa đón. Chẳng may hôm lên đường gặp phải mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì trời tối, cửa ải đã đóng. Mạc Ðĩnh Chi nói mãi, người Nguyên cũng không chịu cho qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì mở cửa ải:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
Nghĩa là:
Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có mười một chữ mà riêng chữ quan nhắc lại tới bốn lần. Chữ quá nhắc lại 3 lần. Mạc Ðĩnh Chi cảm thấy rất khó đối, nhưng nếu im lặng thì e mất thể diện. Ông bèn nhân cái chuyện khó đối ấy, ứng khẩu đọc lên một câu rằng:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
Nghĩa là:
Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.
Tưởng đã bí, thế mà lại hoá ra có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu Mạc Ðĩnh Chi là có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi.
***
Mạc Ðỉnh Chi sang sứ Triều Nguyên, lúc vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử tài văn chương của Trạng và cũng muốn dò tiết khí của viên bồi thần bằng một câu đối. Vua Nguyên đọc:
"Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ"
Nghĩa là: Mặt trời vừa lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng.
Mạc Ðỉnh Chi biết là Vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời, và coi Việt Nam như là mặt trăng, ban ngày nhất định phải bị mặt trời thôn tính, ông bèn ứng khẩu đối ngay:
Nguyệt cung linh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
Nghĩa là: Trăng là cung; sao là đạn, chiếu tối bắn rơi mặt trời
Câu ra đã giỏi mà câu đối lại còn tài hơn. Vua Nguyên nghe đối biết mình đã bị trả miếng rất đau, nhưng cũng hết sức kính phục Mạc Ðỉnh Chi, bèn thưởng cho Trạng Việt Nam rượu ngon và rất nhiều vàng lụa.
***
Một lần nọ, người Nguyên lại giở trò đánh đố chữ. Họ liền viết bốn câu thơ sau và thách Mạc Ðỉnh Chi giải:
Nhất diện lưỡng mi,
Nhất sấu nhất phì
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ
Có nghĩa là: Một mặt đôi mày, một gầy một béo, một năm một tháng, một ngày ba lần.
Thật là ngô nghê khó hiểu, vậy mà Mạc Ðỉnh Chi chỉ đưa mắt ngó qua đã có thể giảng rằng đó là chữ bát. Vì chữ bát tựa đôi lông mày; chữ bát có một nét to một nét nhỏ; chữ bát là tám: mỗi năm chỉ có một tháng tám; chữ bát là tám cũng đồng âm với chữ bát là bát đựng đồ ăn.; do đó mỗi ngày dùng bát ăn ba lần.
Thế là cả mấy lần chơ chữ, đều bị Mạc đỉnh Chi đối đáp trôi chảy cả, Người Nguyên lấy làm phục ông lắm và thường có ý ví ông như Án Tử đời Xuân Thu.
lê giang | Chat Online | |
05/05/2017 18:01:17 |
mi à
꧁༺кєєℓιии༻꧂_♥ℒℴѵe♥ _➻❥ঔ T҉D҉K҉ ঔ❥➻ | Chat Online | |
21/04/2018 09:11:47 |
???????????????????????????????????
nguyễn thị tâm minh 5a1 dũng liệt | |
15/03/2019 18:01:48 |
ảảảảảảảảả ...................... giỏi dữ
NoName.47509 | |
28/05/2020 08:20:46 |
tôi ko hiểu dài thế what dap phac you
Tags: Một mặt đôi mày,Một gầy một béo,Một năm một tháng,Một ngày ba lần,Nhất diện lưỡng mi,Nhất sấu nhất phì,Nhất niên nhất nguyệt,Nhất nhật tam kỳ,Mạc Đĩnh Chi,Câu đố chữ
Đố vui khác:
- Một cô cảnh sát đang truy sát một tên bội bạc, tên bội bạc chạy lên xe ba gác đuổi được một lát chạy vào sa mạc, tên bội bạc bật máy nghe nhạc. Hỏi đang nghe nhạc gì và tên bài hát?
- Sông nào nổi sóng bạc đầu, Ba phen cọc gỗ đâm tàu xâm lăng, Ải nào núi đá trập trùng, Rụng đầu tướng giặc Liễu Thăng không về?
- Vì sao nữ thần tự do lại cầm ngọn đuốc?
- Cởi quần dài thấy quần đùi, cởi quần đùi thấy quần nót, cởi quần nót thấy túm lông, bỏ túm lông thấy hạt - Là gì?
- Có 2 hàng dọc, mỗi hàng có: 2 người đi trước 2 người, 2 người đi giữa 2 người, 2 người đi sau 2 người. Hỏi mỗi hàng có bao nhiêu người?
- Có một đàn voi hai mươi tư con. Hỏi đàn voi đó bị gì?
- Một ông sư bị bệnh, ba ông sư đến thăm. Hỏi có mấy ông sư?
- Có 2 con khỉ đi qua cầu, một con rơi xuống nước hỏi con dưới nước tên gì? Con trên cầu tên gì?
- Tới ngày đám cưới chú rể đi tới nhà của cô dâu
- Một con gấu to đi ngang qua một căn nhà nhỏ. Căn nhà đó bốn mặt đều là hướng Nam. Hỏi con gấu to đó màu gì?
Đố vui mới nhất:
- Cái gì trong sáng nhẹ nhàng; chọc qua giàn lá chẳng làm lá rung?
- Núi rừng Yên Thế âm u; Mười năm kháng Pháp, mặc dù gió mưa; Khi quyết đánh khi vô thừa; Hùm thiêng nổi tiếng bấy giờ là ai?
- Đảo nào lớn nhất Việt Nam?
- Lên dốc bằng hai chân xuống dốc bằng ba chân là con gì?
- Đuôi thì chẳng thấy, mà có hai đầu, là gì?
- Bánh gì nghe tên đã thấy sướng?
- Môi nào lớn nhất?
- Tìm đáp án ở dấu hỏi?
- Đục chìm thuyền địch dưới sông Bạch Đằng là ai?
- Quả gì có đủ năm châu?
Câu đố chữ | Câu đố về đồ dùng học tập | Câu đố về loài vật | Câu đố về loài chim | Câu đố về loài cá | Câu đố về đồ vật | Câu đố về đồ vật dụng gia đình | Câu đố nghề nghiệp | Câu đố về cây cối | Câu đố về hoa quả | Câu đố về các loại củ | Câu đố về các dòng sông | Câu đố về các ngọn núi | Câu đố về nhân vật lịch sử | Câu đố về sự vật hiện tượng tự nhiên | Câu đố về hiện tượng tự nhiên | Câu đố về các cây cầu | Câu đố địa danh | Câu đố về các loại đàn | Câu đố về các loại nhạc cụ | Đố vui IQ | Đố vui Tư duy logic | Tất cả câu đố ...
Bạn có câu đối vui, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu đố vui
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!