Hỏi đáp tổng hợp Gửi câu hỏi Gửi khảo sát
Cách định giá Startup công nghệ
Biết Tuốt | Chat Online | |
26/05/2019 11:27:11 |
1.477 lượt xem
Trả lời / Bình luận (4)
Biết Tuốt | Chat Online | |
26/05/2019 11:27:29 |
Làn sóng Startup công nghệ toàn cầu đang nổi lên với những giá trị doanh nghiệp cao ngất. Nhà đầu tư nói chung và giới đầu tư mạo hiểm nói riêng cũng ngày một sáng tạo trong việc định giá các Startup công nghệ và công ty Fintech.
Những start-up công nghệ với giá cao ngất
Khi Facebook trả 19 tỉ đô la Mỹ để mua lại dịch vụ tin nhắn WhatsApp hồi năm 2014, cả thị trường bất ngờ. Không ít người tự hỏi, tại sao Facebook có thể trả mức giá cao đến vậy cho một công ty mới 5 năm tuổi và có vỏn vẹn 50 nhân viên?
Năm 2016, Uber thua lỗ gần 3 tỉ đô la Mỹ, nhưng vẫn được định giá 68 tỉ đô la Mỹ. Trước đó, Uber gần như không tạo ra lợi nhuận gì. Sau khi được định giá 68 tỉ đô la Mỹ, Uber cũng không có vẻ gì sẽ có lời trong tương lai gần. Phải chăng hơn 82 nhà đầu tư tên tuổi đã thừa tiền để bỏ vào Uber mà không màng tới lợi nhuận?
Uber không phải là công ty duy nhất được định giá tỉ đô mặc dù không đem về bao nhiêu lợi nhuận. Câu lạc bộ kỳ lân toàn cầu (Global Unicorn Club) là những start-up công nghệ chưa IPO mà có mức định giá trên 1 tỉ đô la Mỹ, bao gồm: Uber (68 tỉ đô la Mỹ), Didi Chuxing (50 tỉ đô la Mỹ), Xiaomi (46 tỉ đô la Mỹ), Airbnb (29,3 tỉ đô la Mỹ),... Trong nhóm này cũng có những công ty Fintech hàng đầu như công ty cho vay trực tiếp (peer-to-peer lending)(1), Lufax (18,5 tỉ đô la Mỹ), công ty thanh toán trực tuyến Stripe (9,2 tỉ đô la Mỹ), công ty bảo hiểm trực tuyến Zhong An (8 tỉ đô la Mỹ). Những con số định giá rất cao này được xác định như thế nào? Giới đầu tư mạo hiểm có dùng các phương pháp định giá như chúng ta vẫn hay dùng cho các công ty niêm yết như chiết khấu dòng tiền (DCF), phương pháp bội số, như bội số giá trên doanh thu (price to sales - P/S), bội số giá trên lợi nhuận ròng (price to earnings - P/E), bội số giá trên giá trị sổ sách (price to book value - P/B) hay bội số giá trị doanh nghiệp trên lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay (enterprise value to EBITDA - EV/EBITDA) hay không?
Câu trả lời là Có và Không.
Định giá truyền thống không còn phù hợp
Về lý thuyết, một số nhà đầu tư đã cố gắng áp dụng khoa học để định giá start-up, như (1) phương pháp đầu tư mạo hiểm (VC methods) định giá dựa trên lợi nhuận kỳ vọng tại thời điểm thoái vốn (ROI); (2) phương pháp Berkus định giá dựa trên giá trị bằng tiền của 5 yếu tố thành công chính của start-up (ý tưởng, công nghệ, chất lượng nhóm điều hành, quan hệ chiến lược, khả năng triển khai sản phẩm & bán hàng); (3) phương pháp scorecard tham chiếu giá trị định giá trung bình của các thương vụ tương tự trong khu vực và trong cùng ngành sau đó điều chỉnh tăng/giảm dựa trên 7 tiêu chí trọng yếu để xác định giá trị công ty cần định giá; và (4) phương pháp tổng rủi ro so sánh 12 đặc tính của công ty khởi nghiệp với kỳ vọng.
Tuy nhiên, trên thực tế những phương pháp nói trên ít được sử dụng để định giá công ty khởi nghiệp. Còn trong các phương pháp định giá công ty niêm yết truyền thống thì phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF) hầu như không được sử dụng vì các mô hình tài chính phức tạp của DCF thường phụ thuộc quá nhiều vào các giả định có phần mơ hồ khi công ty mới đang dần được hình thành. Phương pháp bội số, do đó, được sử dụng phổ biến hơn.
Các công ty start-up công nghệ thường không có lời trong nhiều năm hoạt động đầu tiên, vì chi phí bỏ ra để marketing, để thu hút và tạo lập người dùng (user acquisition) lớn hơn rất nhiều so với doanh thu và lợi nhuận thu về. Vì vậy khó có thể định giá những công ty này bằng phương pháp P/E hay EV/EBITDA. Sổ sách của các công ty start-up cũng thường rất sơ khai, và chưa phản ánh đầy đủ giá trị tài sản của công ty start-up (thường là tài sản vô hình tự tạo ra và không được ghi nhận theo các quy định kế toán như cơ sở dữ liệu khách hàng, quyền sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế, ...). Do đó, dùng phương pháp P/B để định giá là không chính xác.
Để định giá các công ty start-up công nghệ, giới đầu tư mạo hiểm hay dùng phương pháp bội số doanh thu P/S (hoặc P/E, nếu start-up nào đó có lời ngay những năm đầu tiên từ lúc gọi vốn). Thông lệ phổ biến trong định giá start-up công nghệ là "3 lần doanh thu hoặc gấp 8 lần lợi nhuận của năm kế tiếp". Ở thời điểm này, nhà đầu tư chấp nhận việc doanh nghiệp chưa tạo ra lợi nhuận, nên định giá trên bội số doanh thu. Về lâu dài bất cứ nhà đầu tư nào cũng đòi hỏi doanh nghiệp mang lại lợi nhuận và dòng tiền ổn định.
Sáng tạo trong định giá start-up công nghệ
Tuy nhiên, định giá bằng phương pháp P/S không phải lúc nào cũng phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp. Như Uber và Grab đang trợ giá rất nhiều cho người dùng, hay nói cách khác, họ đang hy sinh doanh thu để thu hút và tạo lập người dùng. Các start-up công nghệ khác cũng có chiến lược tương tự.
Do đó, nếu chỉ định giá bằng bội số doanh thu thôi sẽ không chính xác. Giới đầu tư mạo hiểm bắt đầu sáng tạo ra các thông số định giá mới mà họ cho rằng phản ánh đúng hơn giá trị của các mô hình kinh doanh đột phá này. Ví dụ như giá bằng bội số số lượng đơn hàng (price to orders) đối với các doanh nghiệp thương mại điện tử; bội số số lượng cuốc xe (price to rides) đối với các công ty taxi không sở hữu xe như Uber, Grab; bội số số lượng người dùng (price to users) đối với các start-up lôi kéo nhiều người dùng, và nhiều các thông số định giá sáng tạo khác.
Trở lại trường hợp Facebook mua lại WhatsApp với giá 19 tỉ đô la Mỹ. Sở dĩ WhatsApp được định giá cao như vậy là vì nó có lượng người dùng (user base) lớn (500 triệu người dùng tại thời điểm được mua) với tốc độ tăng trưởng người dùng cao (cứ một ngày tăng thêm 1 triệu người dùng) mà có thể đem lại nhiều giá trị khi cộng hưởng với các ứng dụng khác của Facebook. Ở thời điểm đó, 70% số lượng người dùng của WhatsApp tương tác hàng ngày (active user), trong khi tỷ lệ này ở Facebook chỉ là 62%. Hơn nữa, trong khi người dùng WhatsApp gửi cho nhau 500 triệu bức hình một ngày, con số này ở Facebook chỉ là 350 triệu bức hình một ngày. Như vậy, mức định giá 19 tỉ đô la Mỹ cho 500 triệu người dùng có nghĩa là Facebook đã mua WhatsApp với giá 38 đô la Mỹ một người dùng (price to users là 38 lần).
Ngoài ra, quay lại câu hỏi tại sao Uber được định giá cao dù vẫn đang thua lỗ triền miên. Lý do là Uber thuyết phục được các nhà đầu tư rằng đây là mô hình có tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai. Thế rồi, các nhà đầu tư mạo hiểm tiếp tục rót vốn vào Uber, nuôi nó cho đến lúc nó chứng minh được điều nói trên.
Định giá Fintech: một chiếc áo không vừa cho tất cả
Năm 2014, khi hai Fintech cho vay trực tiếp là Lending Club và OnDeck Capital phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng tại Mỹ, các công ty này được định giá tương tự như những công ty phần mềm dạng dịch vụ (Software as a Service – SaaS), sử dụng phương pháp định giá bội số doanh thu P/S. Tuy nhiên, các Fintech mảng cho vay lại ẩn chứa rủi ro mất vốn (nợ khó đòi) mà các công ty SaaS không hề có. Vì thế, nếu được định giá tương tự như SaaS, mà không tính đến các rủi ro, sẽ dẫn đến tình trạng định giá quá giá trị thực (over-valued).
Thêm nữa, các công ty Fintech mảng cho vay cũng thường được so sánh với các định chế tài chính truyền thống (ngân hàng, công ty bảo hiểm), vốn hay được định giá bởi phương pháp bội số giá trị sổ sách P/B. Tuy nhiên, sự so sánh này cũng khá khập khiễng bởi trong khi Fintech sử dụng công nghệ cao để đưa sản phẩm của mình tiếp cận với khách hàng thì các ngân hàng, tổ chức tài chính đến với khách hàng thông qua hệ thống chi nhánh truyền thống, mạng lưới máy ATM và lực lượng nhân viên hùng hậu. Giữa ngân hàng và công ty Fintech cũng có sự khác biệt về tỷ suất sinh lời trên tài sản (return on assets - ROA). Năm 2015, ngân hàng JPMorgan Chase có tài sản trị giá khoảng 2.300 tỉ đô la Mỹ và tạo ra khoảng 100 tỉ đô la Mỹ doanh thu một năm, trong khi đó công ty cho vay trực tuyến OnDeck Capital tạo ra doanh thu khoảng 200 triệu đô la Mỹ trên giá trị tài sản chỉ có 750 triệu đô la Mỹ. Vì thế, nếu áp chuẩn P/B chuyên dùng để đánh giá các định chế tài chính có ROA không quá 5% để định giá công ty Fintech có ROA có thể lên tới 40-50% là không hợp lý.
Để giải quyết vấn đề trên, giới đầu tư mạo hiểm đã tìm ra những thông số định giá chuyên biệt phản ánh đúng hơn động lực giá trị của các công ty Fintech, đặc biệt là Fintech mảng cho vay. Một số sử dụng phương pháp định giá bội số lợi nhuận gộp (price to gross profit – P/GP). Công ty Fintech và công ty SaaS giống nhau ở cấu trúc chi phí (bao gồm chi phí bán hàng, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí marketing trực tuyến,...), nhưng lại khác nhau ở chỗ SaaS không có chi phí mất vốn hay nợ khó đòi như công ty Fintech cho vay trực tuyến. Trong khi đó, lợi nhuận gộp cho biết công ty Fintech lời được bao nhiêu sau khi trừ đi chi phí vốn và tổn thất mất vốn.
Nói cách khác, phương pháp bội số lợi nhuận gộp P/GP loại bỏ sự khác biệt giữa SaaS và Fintech cho vay. Chỉ số P/GP này là 5 lần hay 10 lần còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, như tốc độ tăng trưởng, rủi ro tiềm ẩn, tỷ suất lợi nhuận và các yếu tố khác, cũng giống như các chỉ số P/S và P/B có thể khác nhau tùy từng công ty SaaS hay ngân hàng. Một công ty Fintech chuyên cho vay ngắn hạn sẽ ít bị ảnh hưởng bởi môi trường tín dụng hơn các công ty Fintech cho vay dài hạn.
Cũng nên lưu ý rằng, P/GP cũng không phải là một cái áo may vừa cho tất cả các công ty Fintech. Mỗi loại hình công ty Fintech khác nhau (thanh toán trực tuyến, blockchain,…) đều có các động lực giá trị khác nhau, do đó có thể được định giá bằng các thông số khác nhau.
Đằng sau các thông số định giá start-up công nghệ và Fintech
Dù các thông số định giá công ty start-up và Fintech được sáng tạo đến đâu, đằng sau chúng vẫn là những luận điểm đầu tư tương tự như các kênh đầu tư truyền thống. Yếu tố quan trọng đầu tiên của việc định giá các công ty start-up, mặc dù khó định lượng, là đánh giá khả năng hiện thực hóa kế hoạch kinh doanh của người sáng lập và điều hành. Người sáng lập và điều hành càng có nhiều kinh nghiệm khởi nghiệp (serial entrepreneurship), càng có kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình theo đuổi càng được đánh giá cao.
Đối với các công ty Fintech, người sáng lập sẽ được đánh giá cao nếu có kinh nghiệm trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. “Một trong những trở ngại của việc đầu tư vào lĩnh vực Fintech là nếu các Fintech tiếp cận khách hàng là các công ty truyền thống, tốc độ làm việc với những tổ chức này thường rất chậm chạp. Sẽ là lợi thế rất lớn nếu nhóm Fintech là những người đã có sẵn các mối quan hệ trong ngành để có thể dễ dàng sắp xếp các cuộc gặp gỡ với những người ở cấp quyết định từ phía khách hàng”, Manu Gupta, Giám đốc quỹ đầu tư mạo hiểm Lakestar(2) cho biết.
Bên cạnh đó, ngành tài chính thường bị chi phối bởi nhiều quy định pháp luật; bởi vậy, các công ty Fintech cũng gặp nhiều khó khăn hơn các công ty start-up công nghệ khác. Người sáng lập và điều hành công ty Fintech cũng phải là người giải quyết được những khó khăn này.
Yếu tố quan trọng thứ hai trong việc định giá các công ty khởi nghiệp là việc xem xét tại thời điểm đầu tư công ty đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng (traction) như thế nào đối với những chỉ tiêu hoạt động trọng yếu (KPI) tương ứng với lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đó. Ví dụ, đối với các start-up dựa trên cơ sở người dùng như WhatsApp, Zalo, Facebook thì nhà đầu tư sẽ xem xét tốc độ phát triển người dùng (user growth) qua thời gian.
Còn như các công ty thương mại điện tử Lazada, Alibaba thì nhà đầu tư sẽ xem xét tốc độ tăng trưởng số lượng đơn hàng, giá trị đơn hàng (gross merchandise value),... Tùy thuộc vào loại hình công ty Fintech mà nhà đầu tư sẽ đánh giá các chỉ tiêu khác nhau. Một công ty cho vay trực tiếp sẽ được đánh giá bởi số lượng giao dịch thành công, giá trị giao dịch thành công. Các start-up càng đạt được tốc độ tăng trưởng cao cho những chỉ tiêu thuộc lĩnh vực của mình (số lượng người dùng, số lượng đơn hàng tăng nhanh) trước khi gọi vốn, càng có khả năng đạt được mức định giá cao.
Hillel Zidel, Giám đốc điều hành quỹ cổ phiếu tăng trưởng Kennet Partners, cho rằng nhà đầu tư có xu hướng trả giá cao hơn cho các start-up đã tạo ra được dòng doanh thu đều đặn. Còn không, nhà đầu tư sẽ đặt trọng tâm vào các tài sản trí tuệ của start-up đó (chính là sản phẩm phần mềm, ứng dụng, mô hình kinh doanh đột phá) và tốc độ tăng trưởng đã đạt được đối với các chỉ tiêu hoạt động trọng yếu. Điều này càng khẳng định, start-up không chỉ được định giá qua dòng tiền tạo ra mà còn bằng việc tăng trưởng nhanh trong khi tạo ra tiền. Thông lệ phổ biến là một start-up cần phải tăng trưởng KPI ít nhất gấp 10 lần trong vòng 18 tháng.
Từ trước tới nay, mới chỉ có vài trường hợp ngoại lệ có thể gọi vốn trước khi sản phẩm có thành quả (người dùng) và người sáng lập có tiếng tăm. Kevin Systrom, “cha đẻ” của Instagram đã gọi được 500.000 đô la Mỹ ở vòng hạt giống khi mới chỉ có khuôn mẫu sản phẩm (prototype), lúc đó có tên là Brnb. Kevin làm việc hai năm tại Google, ngoài đó ra, anh cũng chẳng có kinh nghiệm khởi nghiệp gì. Tương tự với Ben Silbermann - người sáng lập Pinterest. Ở đây, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đánh cược vào chính những người sáng lập này và thực sự đã ra quyết định đầu tư dựa trên trực giác là chính.
Định giá là một nghệ thuật
Trên thực tế, đã có những trường hợp sau khi niêm yết, giá cổ phiếu các công ty start-up giảm xuống rất nhiều so với giá IPO, như trường hợp của Lending Club, OnDeck Capital, Square hay Enova. Nhưng không vì thế mà giới đầu tư mất niềm tin vào các công ty khởi nghiệp. Điều này cho thấy, cần có các phương thức định giá hợp lý cho từng loại hình công ty khởi nghiệp thay vì áp chung chuẩn với các ngành truyền thống. Cuối cùng, thị trường sẽ tự nó điều chỉnh và nhà đầu tư nào tìm được cổ phiếu đang có giá thấp hơn so với giá trị thực của nó sẽ là người có khả năng thu lời cao.
Như vậy, định giá các công ty start-up đòi hỏi sự sáng tạo hơn định giá các công ty niêm yết rất nhiều. Tuy nhiên, sự sáng tạo không chỉ giới hạn trong việc định giá các công ty start-up. Suy rộng ra, các chuyên viên phân tích các cổ phiếu niêm yết hay cổ phiếu công ty tư nhân (private equity) hoàn toàn có thể sáng tạo ra các thông số định giá phù hợp với từng ngành thay vì chỉ dựa vào các thông số có sẵn.
Một chuyên gia quản lý quỹ, cũng là thành viên của viện CFA tại Việt Nam cho hay, anh thường có những bộ chỉ số định giá (leading indicators) cho từng ngành nghề, là sự kết hợp của những thông số sẵn có trong giới phân tích và những nghiên cứu, tìm tòi về từng lĩnh vực, ngành nghề của riêng mình. Ví dụ, trong khi giới phân tích thường dùng chỉ tiêu doanh thu trên một đơn vị ghế luân chuyển (Revenue per available seat km - RASK) để đánh giá hiệu quả của các hãng hàng không, thì anh lại đánh giá bằng chỉ tiêu doanh thu trên mỗi ghế sẵn có (Revenue per available seats) để xác định hiệu quả chính xác hơn khi tính đến cả những máy bay hãng có nhưng trên thực tế không bay giờ nào (RASK chỉ tính trên số ghế có bay năm đó).
Xét cho cùng, định giá start-up là một nghệ thuật chứ không hẳn là khoa học đơn thuần. Peter Wendell, Giám đốc điều hành quỹ đầu tư mạo hiểm Sierra Ventures tại Mỹ, đồng thời là giảng viên Đại học Stanford nhận xét: “Đó hoàn toàn là nghệ thuật, không phải khoa học. Các công ty truyền thống thường được định giá bằng các chỉ số tài chính rõ ràng. Trong giới start-up thì khác, bởi nhìn chung đầu tư vào start-up là đầu tư vào hy vọng và ước mơ”.
Theo: Bùi Thị Hiền Anh / CFA
Chú thích:
(1) Peer-to-peer lending là cơ chế cho vay trực tiếp sử dụng công nghệ trực tuyến kết nối người cần vốn và người có vốn mà không cần qua trung gian (như mô hình ngân hàng truyền thống).
(2) Lakestar là một trong những cổ đông của công ty fintech Algomi có trụ sở tại London, Anh Quốc. Ngoài Algomi, Lakestar cũng đầu tư vào 5 công ty fintech khác và cũng chính là cổ đông của các start-up công nghệ đình đám như Skype, Facebook, Spotify và Airbnb.
Những start-up công nghệ với giá cao ngất
Khi Facebook trả 19 tỉ đô la Mỹ để mua lại dịch vụ tin nhắn WhatsApp hồi năm 2014, cả thị trường bất ngờ. Không ít người tự hỏi, tại sao Facebook có thể trả mức giá cao đến vậy cho một công ty mới 5 năm tuổi và có vỏn vẹn 50 nhân viên?
Năm 2016, Uber thua lỗ gần 3 tỉ đô la Mỹ, nhưng vẫn được định giá 68 tỉ đô la Mỹ. Trước đó, Uber gần như không tạo ra lợi nhuận gì. Sau khi được định giá 68 tỉ đô la Mỹ, Uber cũng không có vẻ gì sẽ có lời trong tương lai gần. Phải chăng hơn 82 nhà đầu tư tên tuổi đã thừa tiền để bỏ vào Uber mà không màng tới lợi nhuận?
Uber không phải là công ty duy nhất được định giá tỉ đô mặc dù không đem về bao nhiêu lợi nhuận. Câu lạc bộ kỳ lân toàn cầu (Global Unicorn Club) là những start-up công nghệ chưa IPO mà có mức định giá trên 1 tỉ đô la Mỹ, bao gồm: Uber (68 tỉ đô la Mỹ), Didi Chuxing (50 tỉ đô la Mỹ), Xiaomi (46 tỉ đô la Mỹ), Airbnb (29,3 tỉ đô la Mỹ),... Trong nhóm này cũng có những công ty Fintech hàng đầu như công ty cho vay trực tiếp (peer-to-peer lending)(1), Lufax (18,5 tỉ đô la Mỹ), công ty thanh toán trực tuyến Stripe (9,2 tỉ đô la Mỹ), công ty bảo hiểm trực tuyến Zhong An (8 tỉ đô la Mỹ). Những con số định giá rất cao này được xác định như thế nào? Giới đầu tư mạo hiểm có dùng các phương pháp định giá như chúng ta vẫn hay dùng cho các công ty niêm yết như chiết khấu dòng tiền (DCF), phương pháp bội số, như bội số giá trên doanh thu (price to sales - P/S), bội số giá trên lợi nhuận ròng (price to earnings - P/E), bội số giá trên giá trị sổ sách (price to book value - P/B) hay bội số giá trị doanh nghiệp trên lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay (enterprise value to EBITDA - EV/EBITDA) hay không?
Câu trả lời là Có và Không.
Định giá truyền thống không còn phù hợp
Về lý thuyết, một số nhà đầu tư đã cố gắng áp dụng khoa học để định giá start-up, như (1) phương pháp đầu tư mạo hiểm (VC methods) định giá dựa trên lợi nhuận kỳ vọng tại thời điểm thoái vốn (ROI); (2) phương pháp Berkus định giá dựa trên giá trị bằng tiền của 5 yếu tố thành công chính của start-up (ý tưởng, công nghệ, chất lượng nhóm điều hành, quan hệ chiến lược, khả năng triển khai sản phẩm & bán hàng); (3) phương pháp scorecard tham chiếu giá trị định giá trung bình của các thương vụ tương tự trong khu vực và trong cùng ngành sau đó điều chỉnh tăng/giảm dựa trên 7 tiêu chí trọng yếu để xác định giá trị công ty cần định giá; và (4) phương pháp tổng rủi ro so sánh 12 đặc tính của công ty khởi nghiệp với kỳ vọng.
Tuy nhiên, trên thực tế những phương pháp nói trên ít được sử dụng để định giá công ty khởi nghiệp. Còn trong các phương pháp định giá công ty niêm yết truyền thống thì phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF) hầu như không được sử dụng vì các mô hình tài chính phức tạp của DCF thường phụ thuộc quá nhiều vào các giả định có phần mơ hồ khi công ty mới đang dần được hình thành. Phương pháp bội số, do đó, được sử dụng phổ biến hơn.
Các công ty start-up công nghệ thường không có lời trong nhiều năm hoạt động đầu tiên, vì chi phí bỏ ra để marketing, để thu hút và tạo lập người dùng (user acquisition) lớn hơn rất nhiều so với doanh thu và lợi nhuận thu về. Vì vậy khó có thể định giá những công ty này bằng phương pháp P/E hay EV/EBITDA. Sổ sách của các công ty start-up cũng thường rất sơ khai, và chưa phản ánh đầy đủ giá trị tài sản của công ty start-up (thường là tài sản vô hình tự tạo ra và không được ghi nhận theo các quy định kế toán như cơ sở dữ liệu khách hàng, quyền sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế, ...). Do đó, dùng phương pháp P/B để định giá là không chính xác.
Để định giá các công ty start-up công nghệ, giới đầu tư mạo hiểm hay dùng phương pháp bội số doanh thu P/S (hoặc P/E, nếu start-up nào đó có lời ngay những năm đầu tiên từ lúc gọi vốn). Thông lệ phổ biến trong định giá start-up công nghệ là "3 lần doanh thu hoặc gấp 8 lần lợi nhuận của năm kế tiếp". Ở thời điểm này, nhà đầu tư chấp nhận việc doanh nghiệp chưa tạo ra lợi nhuận, nên định giá trên bội số doanh thu. Về lâu dài bất cứ nhà đầu tư nào cũng đòi hỏi doanh nghiệp mang lại lợi nhuận và dòng tiền ổn định.
Sáng tạo trong định giá start-up công nghệ
Tuy nhiên, định giá bằng phương pháp P/S không phải lúc nào cũng phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp. Như Uber và Grab đang trợ giá rất nhiều cho người dùng, hay nói cách khác, họ đang hy sinh doanh thu để thu hút và tạo lập người dùng. Các start-up công nghệ khác cũng có chiến lược tương tự.
Do đó, nếu chỉ định giá bằng bội số doanh thu thôi sẽ không chính xác. Giới đầu tư mạo hiểm bắt đầu sáng tạo ra các thông số định giá mới mà họ cho rằng phản ánh đúng hơn giá trị của các mô hình kinh doanh đột phá này. Ví dụ như giá bằng bội số số lượng đơn hàng (price to orders) đối với các doanh nghiệp thương mại điện tử; bội số số lượng cuốc xe (price to rides) đối với các công ty taxi không sở hữu xe như Uber, Grab; bội số số lượng người dùng (price to users) đối với các start-up lôi kéo nhiều người dùng, và nhiều các thông số định giá sáng tạo khác.
Trở lại trường hợp Facebook mua lại WhatsApp với giá 19 tỉ đô la Mỹ. Sở dĩ WhatsApp được định giá cao như vậy là vì nó có lượng người dùng (user base) lớn (500 triệu người dùng tại thời điểm được mua) với tốc độ tăng trưởng người dùng cao (cứ một ngày tăng thêm 1 triệu người dùng) mà có thể đem lại nhiều giá trị khi cộng hưởng với các ứng dụng khác của Facebook. Ở thời điểm đó, 70% số lượng người dùng của WhatsApp tương tác hàng ngày (active user), trong khi tỷ lệ này ở Facebook chỉ là 62%. Hơn nữa, trong khi người dùng WhatsApp gửi cho nhau 500 triệu bức hình một ngày, con số này ở Facebook chỉ là 350 triệu bức hình một ngày. Như vậy, mức định giá 19 tỉ đô la Mỹ cho 500 triệu người dùng có nghĩa là Facebook đã mua WhatsApp với giá 38 đô la Mỹ một người dùng (price to users là 38 lần).
Ngoài ra, quay lại câu hỏi tại sao Uber được định giá cao dù vẫn đang thua lỗ triền miên. Lý do là Uber thuyết phục được các nhà đầu tư rằng đây là mô hình có tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai. Thế rồi, các nhà đầu tư mạo hiểm tiếp tục rót vốn vào Uber, nuôi nó cho đến lúc nó chứng minh được điều nói trên.
Định giá Fintech: một chiếc áo không vừa cho tất cả
Năm 2014, khi hai Fintech cho vay trực tiếp là Lending Club và OnDeck Capital phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng tại Mỹ, các công ty này được định giá tương tự như những công ty phần mềm dạng dịch vụ (Software as a Service – SaaS), sử dụng phương pháp định giá bội số doanh thu P/S. Tuy nhiên, các Fintech mảng cho vay lại ẩn chứa rủi ro mất vốn (nợ khó đòi) mà các công ty SaaS không hề có. Vì thế, nếu được định giá tương tự như SaaS, mà không tính đến các rủi ro, sẽ dẫn đến tình trạng định giá quá giá trị thực (over-valued).
Thêm nữa, các công ty Fintech mảng cho vay cũng thường được so sánh với các định chế tài chính truyền thống (ngân hàng, công ty bảo hiểm), vốn hay được định giá bởi phương pháp bội số giá trị sổ sách P/B. Tuy nhiên, sự so sánh này cũng khá khập khiễng bởi trong khi Fintech sử dụng công nghệ cao để đưa sản phẩm của mình tiếp cận với khách hàng thì các ngân hàng, tổ chức tài chính đến với khách hàng thông qua hệ thống chi nhánh truyền thống, mạng lưới máy ATM và lực lượng nhân viên hùng hậu. Giữa ngân hàng và công ty Fintech cũng có sự khác biệt về tỷ suất sinh lời trên tài sản (return on assets - ROA). Năm 2015, ngân hàng JPMorgan Chase có tài sản trị giá khoảng 2.300 tỉ đô la Mỹ và tạo ra khoảng 100 tỉ đô la Mỹ doanh thu một năm, trong khi đó công ty cho vay trực tuyến OnDeck Capital tạo ra doanh thu khoảng 200 triệu đô la Mỹ trên giá trị tài sản chỉ có 750 triệu đô la Mỹ. Vì thế, nếu áp chuẩn P/B chuyên dùng để đánh giá các định chế tài chính có ROA không quá 5% để định giá công ty Fintech có ROA có thể lên tới 40-50% là không hợp lý.
Để giải quyết vấn đề trên, giới đầu tư mạo hiểm đã tìm ra những thông số định giá chuyên biệt phản ánh đúng hơn động lực giá trị của các công ty Fintech, đặc biệt là Fintech mảng cho vay. Một số sử dụng phương pháp định giá bội số lợi nhuận gộp (price to gross profit – P/GP). Công ty Fintech và công ty SaaS giống nhau ở cấu trúc chi phí (bao gồm chi phí bán hàng, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí marketing trực tuyến,...), nhưng lại khác nhau ở chỗ SaaS không có chi phí mất vốn hay nợ khó đòi như công ty Fintech cho vay trực tuyến. Trong khi đó, lợi nhuận gộp cho biết công ty Fintech lời được bao nhiêu sau khi trừ đi chi phí vốn và tổn thất mất vốn.
Nói cách khác, phương pháp bội số lợi nhuận gộp P/GP loại bỏ sự khác biệt giữa SaaS và Fintech cho vay. Chỉ số P/GP này là 5 lần hay 10 lần còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, như tốc độ tăng trưởng, rủi ro tiềm ẩn, tỷ suất lợi nhuận và các yếu tố khác, cũng giống như các chỉ số P/S và P/B có thể khác nhau tùy từng công ty SaaS hay ngân hàng. Một công ty Fintech chuyên cho vay ngắn hạn sẽ ít bị ảnh hưởng bởi môi trường tín dụng hơn các công ty Fintech cho vay dài hạn.
Cũng nên lưu ý rằng, P/GP cũng không phải là một cái áo may vừa cho tất cả các công ty Fintech. Mỗi loại hình công ty Fintech khác nhau (thanh toán trực tuyến, blockchain,…) đều có các động lực giá trị khác nhau, do đó có thể được định giá bằng các thông số khác nhau.
Đằng sau các thông số định giá start-up công nghệ và Fintech
Dù các thông số định giá công ty start-up và Fintech được sáng tạo đến đâu, đằng sau chúng vẫn là những luận điểm đầu tư tương tự như các kênh đầu tư truyền thống. Yếu tố quan trọng đầu tiên của việc định giá các công ty start-up, mặc dù khó định lượng, là đánh giá khả năng hiện thực hóa kế hoạch kinh doanh của người sáng lập và điều hành. Người sáng lập và điều hành càng có nhiều kinh nghiệm khởi nghiệp (serial entrepreneurship), càng có kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình theo đuổi càng được đánh giá cao.
Đối với các công ty Fintech, người sáng lập sẽ được đánh giá cao nếu có kinh nghiệm trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. “Một trong những trở ngại của việc đầu tư vào lĩnh vực Fintech là nếu các Fintech tiếp cận khách hàng là các công ty truyền thống, tốc độ làm việc với những tổ chức này thường rất chậm chạp. Sẽ là lợi thế rất lớn nếu nhóm Fintech là những người đã có sẵn các mối quan hệ trong ngành để có thể dễ dàng sắp xếp các cuộc gặp gỡ với những người ở cấp quyết định từ phía khách hàng”, Manu Gupta, Giám đốc quỹ đầu tư mạo hiểm Lakestar(2) cho biết.
Bên cạnh đó, ngành tài chính thường bị chi phối bởi nhiều quy định pháp luật; bởi vậy, các công ty Fintech cũng gặp nhiều khó khăn hơn các công ty start-up công nghệ khác. Người sáng lập và điều hành công ty Fintech cũng phải là người giải quyết được những khó khăn này.
Yếu tố quan trọng thứ hai trong việc định giá các công ty khởi nghiệp là việc xem xét tại thời điểm đầu tư công ty đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng (traction) như thế nào đối với những chỉ tiêu hoạt động trọng yếu (KPI) tương ứng với lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đó. Ví dụ, đối với các start-up dựa trên cơ sở người dùng như WhatsApp, Zalo, Facebook thì nhà đầu tư sẽ xem xét tốc độ phát triển người dùng (user growth) qua thời gian.
Còn như các công ty thương mại điện tử Lazada, Alibaba thì nhà đầu tư sẽ xem xét tốc độ tăng trưởng số lượng đơn hàng, giá trị đơn hàng (gross merchandise value),... Tùy thuộc vào loại hình công ty Fintech mà nhà đầu tư sẽ đánh giá các chỉ tiêu khác nhau. Một công ty cho vay trực tiếp sẽ được đánh giá bởi số lượng giao dịch thành công, giá trị giao dịch thành công. Các start-up càng đạt được tốc độ tăng trưởng cao cho những chỉ tiêu thuộc lĩnh vực của mình (số lượng người dùng, số lượng đơn hàng tăng nhanh) trước khi gọi vốn, càng có khả năng đạt được mức định giá cao.
Hillel Zidel, Giám đốc điều hành quỹ cổ phiếu tăng trưởng Kennet Partners, cho rằng nhà đầu tư có xu hướng trả giá cao hơn cho các start-up đã tạo ra được dòng doanh thu đều đặn. Còn không, nhà đầu tư sẽ đặt trọng tâm vào các tài sản trí tuệ của start-up đó (chính là sản phẩm phần mềm, ứng dụng, mô hình kinh doanh đột phá) và tốc độ tăng trưởng đã đạt được đối với các chỉ tiêu hoạt động trọng yếu. Điều này càng khẳng định, start-up không chỉ được định giá qua dòng tiền tạo ra mà còn bằng việc tăng trưởng nhanh trong khi tạo ra tiền. Thông lệ phổ biến là một start-up cần phải tăng trưởng KPI ít nhất gấp 10 lần trong vòng 18 tháng.
Từ trước tới nay, mới chỉ có vài trường hợp ngoại lệ có thể gọi vốn trước khi sản phẩm có thành quả (người dùng) và người sáng lập có tiếng tăm. Kevin Systrom, “cha đẻ” của Instagram đã gọi được 500.000 đô la Mỹ ở vòng hạt giống khi mới chỉ có khuôn mẫu sản phẩm (prototype), lúc đó có tên là Brnb. Kevin làm việc hai năm tại Google, ngoài đó ra, anh cũng chẳng có kinh nghiệm khởi nghiệp gì. Tương tự với Ben Silbermann - người sáng lập Pinterest. Ở đây, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đánh cược vào chính những người sáng lập này và thực sự đã ra quyết định đầu tư dựa trên trực giác là chính.
Định giá là một nghệ thuật
Trên thực tế, đã có những trường hợp sau khi niêm yết, giá cổ phiếu các công ty start-up giảm xuống rất nhiều so với giá IPO, như trường hợp của Lending Club, OnDeck Capital, Square hay Enova. Nhưng không vì thế mà giới đầu tư mất niềm tin vào các công ty khởi nghiệp. Điều này cho thấy, cần có các phương thức định giá hợp lý cho từng loại hình công ty khởi nghiệp thay vì áp chung chuẩn với các ngành truyền thống. Cuối cùng, thị trường sẽ tự nó điều chỉnh và nhà đầu tư nào tìm được cổ phiếu đang có giá thấp hơn so với giá trị thực của nó sẽ là người có khả năng thu lời cao.
Như vậy, định giá các công ty start-up đòi hỏi sự sáng tạo hơn định giá các công ty niêm yết rất nhiều. Tuy nhiên, sự sáng tạo không chỉ giới hạn trong việc định giá các công ty start-up. Suy rộng ra, các chuyên viên phân tích các cổ phiếu niêm yết hay cổ phiếu công ty tư nhân (private equity) hoàn toàn có thể sáng tạo ra các thông số định giá phù hợp với từng ngành thay vì chỉ dựa vào các thông số có sẵn.
Một chuyên gia quản lý quỹ, cũng là thành viên của viện CFA tại Việt Nam cho hay, anh thường có những bộ chỉ số định giá (leading indicators) cho từng ngành nghề, là sự kết hợp của những thông số sẵn có trong giới phân tích và những nghiên cứu, tìm tòi về từng lĩnh vực, ngành nghề của riêng mình. Ví dụ, trong khi giới phân tích thường dùng chỉ tiêu doanh thu trên một đơn vị ghế luân chuyển (Revenue per available seat km - RASK) để đánh giá hiệu quả của các hãng hàng không, thì anh lại đánh giá bằng chỉ tiêu doanh thu trên mỗi ghế sẵn có (Revenue per available seats) để xác định hiệu quả chính xác hơn khi tính đến cả những máy bay hãng có nhưng trên thực tế không bay giờ nào (RASK chỉ tính trên số ghế có bay năm đó).
Xét cho cùng, định giá start-up là một nghệ thuật chứ không hẳn là khoa học đơn thuần. Peter Wendell, Giám đốc điều hành quỹ đầu tư mạo hiểm Sierra Ventures tại Mỹ, đồng thời là giảng viên Đại học Stanford nhận xét: “Đó hoàn toàn là nghệ thuật, không phải khoa học. Các công ty truyền thống thường được định giá bằng các chỉ số tài chính rõ ràng. Trong giới start-up thì khác, bởi nhìn chung đầu tư vào start-up là đầu tư vào hy vọng và ước mơ”.
Theo: Bùi Thị Hiền Anh / CFA
Chú thích:
(1) Peer-to-peer lending là cơ chế cho vay trực tiếp sử dụng công nghệ trực tuyến kết nối người cần vốn và người có vốn mà không cần qua trung gian (như mô hình ngân hàng truyền thống).
(2) Lakestar là một trong những cổ đông của công ty fintech Algomi có trụ sở tại London, Anh Quốc. Ngoài Algomi, Lakestar cũng đầu tư vào 5 công ty fintech khác và cũng chính là cổ đông của các start-up công nghệ đình đám như Skype, Facebook, Spotify và Airbnb.
Biết Tuốt | Chat Online | |
26/05/2019 11:45:23 |
Trước khi quyết định đầu tư vào một công ty nào đó, câu hỏi quan trọng nhất đó là: Doanh nghiệp này trị giá bao nhiêu?
Thông thường các nhà đầu tư đều vướng phải bẫy trả giá cao, bởi vì cho rằng có nhiều người khác cũng đang sẵn sàng bỏ tiền ra. Tuy nhiên hãy ngừng làm điều đó. Một khoản đầu tư chỉ tốt khi startup được định giá đúng.
Về lý thuyết, giá trị của một tài sản tài chính là giá trị chiết khấu của dòng tiền trong tương lai. Thật không may, dự đoán dòng tiền trong tương lai của một startup lại không thật sự đáng tin cậy. Phải là doanh nghiệp càng lâu năm, phương pháp này mới càng chính xác và đáng tin cậy.
Thay vào đó, các nhà đầu tư có thể sử dụng 4 phương pháp "Ngón tay cái" dưới đây khi cần định giá một startup nhanh chóng. Cũng cần lưu ý thêm rằng nếu như có thể sử dụng cả 4 phương pháp cùng một lúc, bạn có thể củng cố và chắc chắn hơn về câu trả lời.
1. Định giá startup theo giai đoạn:
Đây là phương pháp dễ nhất: Định giá một startup theo giai đoạn phát triển. Startup càng tiến triển được xa bao nhiêu, phát triển nhiều thế nào, thì rủi ro càng ít lại và họ được định giá càng cao.
Định giá theo giai đoạn thông thường sẽ như thế này:
Dưới đây là các giai đoạn điển hình của một startup:
2. Phương pháp giá trị tương lai
Phương pháp này dựa trên giả định cơ bản là các nhà đầu tư tìm kiếm mức lợi nhuận gấp 5 - 10 lần đối với khoản đầu tư của họ trong giai đoạn 5 năm. Nhà đầu tư cần hỏi những câu hỏi sau:
- Công ty này có thể được bán với mức giá là bao nhiêu trong 5 năm tới kể từ bây giờ?
Giả sử là 100 triệu USD. Bạn có thể xác định con số này thông qua việc so sánh với một vài trường hợp startup tương tự.
- Các doanh nhân định giá công ty hiện tại bao nhiêu?
Giả sử là 10 triệu USD. Như vậy nó phù hợp với mong muốn thu về lợi nhuận gấp 10 lần ban đầu của bạn, tương đương mức giá trị từ 10 – 100 triệu USD, chưa tính đến việc cổ phần bị pha loãng sau này.
- Bạn nghĩ khoản đầu tư của mình sẽ bị pha loãng ra sao trong những vòng sau?
Nên nhớ là sẽ có nhiều đơn vị nữa đầu tư vào startup và làm loãng cổ phần của bạn. Như vậy giả sử cổ phần của bạn bị pha loãng 1 nửa mà nếu ở mức định giá 100 triệu USD như kể trên tức là để vẫn đạt được mức lợi nhuận gấp 10 lần, giá trị công ty này cần đạt được phải là 200 triệu USD.
3. Phương pháp định giá theo giá trị phạm vi giới hạn
- Startup cần bao nhiêu?
Thông thường một startup mới kinh doanh cần khoảng 500.000 USD để hoạt động 18 tháng và có đủ động lực để phát triển tiếp. Các nhà đầu tư không nên cố gắng thoả thuận dưới mức này bởi nó sẽ hạn chế hoạt động kinh doanh của startup, từ đó tăng nguy cơ thất bại và kết quả cuối cùng là khoản đầu tư thua lỗ.
- Nhà đầu tư muốn nhận bao nhiêu?
Việc cho các nhà đầu tư nắm giữ tới 50% cổ phần sẽ khiến các nhà sáng lập có ít cổ phần và động lực hơn để làm việc chăm chỉ. Mức tiêu chuẩn thường nằm trong khoảng từ 10 - 30%.
Pre-money valuation là giá trị công ty trước khi gọi vốn. Post-money valuation là giá trị công ty sau khi gọi vốn. New funding là số vốn gọi được thêm trong vòng mới.
Post-money valuati valuation + new funding
Cố phần chia cho người đầu tư = new funding/post-money valuation
Như vậy, nếu mức 500.000 USD và 10 – 30% là cố định thì thường giá trị công ty post-money vào khoảng 1,6667 triệu USD (khi đổi lấy 30% cổ phần) và 5 triệu USD (khi đổi lấy 10% cổ phần). Do đó, giá trị pre-money vào khoảng 1,17 triệu USD và 4,5 triệu USD.
4. Phương pháp định giá kiểu Berkus
Được tạo ra bởi Dave Berkus, phương pháp định giá này dùng để áp dụng cho doanh nghiệp chưa có doanh thu và định giá cơ bản dựa trên sự phát triển của startup. Giá trị cao nhất là 2 triệu USD (hoặc nhiều trường hợp lên tới 2,5 triệu USD). Bạn chỉ cần thêm 1/2 triệu USD cho mỗi giai đoạn phát triển thêm của startup.
Nhìn chung việc định giá doanh nghiệp ở bất kỳ giai đoạn nào trong vòng đời của nó cũng đều rất khó khăn, đặc biệt là thời kỳ đầu. 4 phương pháp kể trên giúp nhà sáng lập startup và cả nhà đầu tư có cái nhìn rõ hơn về giá trị tại mỗi vòng.
Dĩ nhiên cũng có những ngoại lệ. Tuy nhiên một vài ngoại lệ là hợp lý còn một số khác thì không. Ngoài ra bên cạnh định giá, còn rất nhiều yếu tố khác cần được cân nhắc khi muốn đầu tư vào một startup. Nhưng nói tóm lại, với một cơ hội đầu tư vào startup, đầu tiên bạn cần phải định giá được giá trị của nó trước và xem xét tới những yếu tố tiếp theo để đưa ra quyết định.
Thông thường các nhà đầu tư đều vướng phải bẫy trả giá cao, bởi vì cho rằng có nhiều người khác cũng đang sẵn sàng bỏ tiền ra. Tuy nhiên hãy ngừng làm điều đó. Một khoản đầu tư chỉ tốt khi startup được định giá đúng.
Về lý thuyết, giá trị của một tài sản tài chính là giá trị chiết khấu của dòng tiền trong tương lai. Thật không may, dự đoán dòng tiền trong tương lai của một startup lại không thật sự đáng tin cậy. Phải là doanh nghiệp càng lâu năm, phương pháp này mới càng chính xác và đáng tin cậy.
Thay vào đó, các nhà đầu tư có thể sử dụng 4 phương pháp "Ngón tay cái" dưới đây khi cần định giá một startup nhanh chóng. Cũng cần lưu ý thêm rằng nếu như có thể sử dụng cả 4 phương pháp cùng một lúc, bạn có thể củng cố và chắc chắn hơn về câu trả lời.
1. Định giá startup theo giai đoạn:
Đây là phương pháp dễ nhất: Định giá một startup theo giai đoạn phát triển. Startup càng tiến triển được xa bao nhiêu, phát triển nhiều thế nào, thì rủi ro càng ít lại và họ được định giá càng cao.
Định giá theo giai đoạn thông thường sẽ như thế này:
Dưới đây là các giai đoạn điển hình của một startup:
2. Phương pháp giá trị tương lai
Phương pháp này dựa trên giả định cơ bản là các nhà đầu tư tìm kiếm mức lợi nhuận gấp 5 - 10 lần đối với khoản đầu tư của họ trong giai đoạn 5 năm. Nhà đầu tư cần hỏi những câu hỏi sau:
- Công ty này có thể được bán với mức giá là bao nhiêu trong 5 năm tới kể từ bây giờ?
Giả sử là 100 triệu USD. Bạn có thể xác định con số này thông qua việc so sánh với một vài trường hợp startup tương tự.
- Các doanh nhân định giá công ty hiện tại bao nhiêu?
Giả sử là 10 triệu USD. Như vậy nó phù hợp với mong muốn thu về lợi nhuận gấp 10 lần ban đầu của bạn, tương đương mức giá trị từ 10 – 100 triệu USD, chưa tính đến việc cổ phần bị pha loãng sau này.
- Bạn nghĩ khoản đầu tư của mình sẽ bị pha loãng ra sao trong những vòng sau?
Nên nhớ là sẽ có nhiều đơn vị nữa đầu tư vào startup và làm loãng cổ phần của bạn. Như vậy giả sử cổ phần của bạn bị pha loãng 1 nửa mà nếu ở mức định giá 100 triệu USD như kể trên tức là để vẫn đạt được mức lợi nhuận gấp 10 lần, giá trị công ty này cần đạt được phải là 200 triệu USD.
3. Phương pháp định giá theo giá trị phạm vi giới hạn
- Startup cần bao nhiêu?
Thông thường một startup mới kinh doanh cần khoảng 500.000 USD để hoạt động 18 tháng và có đủ động lực để phát triển tiếp. Các nhà đầu tư không nên cố gắng thoả thuận dưới mức này bởi nó sẽ hạn chế hoạt động kinh doanh của startup, từ đó tăng nguy cơ thất bại và kết quả cuối cùng là khoản đầu tư thua lỗ.
- Nhà đầu tư muốn nhận bao nhiêu?
Việc cho các nhà đầu tư nắm giữ tới 50% cổ phần sẽ khiến các nhà sáng lập có ít cổ phần và động lực hơn để làm việc chăm chỉ. Mức tiêu chuẩn thường nằm trong khoảng từ 10 - 30%.
Pre-money valuation là giá trị công ty trước khi gọi vốn. Post-money valuation là giá trị công ty sau khi gọi vốn. New funding là số vốn gọi được thêm trong vòng mới.
Post-money valuati valuation + new funding
Cố phần chia cho người đầu tư = new funding/post-money valuation
Như vậy, nếu mức 500.000 USD và 10 – 30% là cố định thì thường giá trị công ty post-money vào khoảng 1,6667 triệu USD (khi đổi lấy 30% cổ phần) và 5 triệu USD (khi đổi lấy 10% cổ phần). Do đó, giá trị pre-money vào khoảng 1,17 triệu USD và 4,5 triệu USD.
4. Phương pháp định giá kiểu Berkus
Được tạo ra bởi Dave Berkus, phương pháp định giá này dùng để áp dụng cho doanh nghiệp chưa có doanh thu và định giá cơ bản dựa trên sự phát triển của startup. Giá trị cao nhất là 2 triệu USD (hoặc nhiều trường hợp lên tới 2,5 triệu USD). Bạn chỉ cần thêm 1/2 triệu USD cho mỗi giai đoạn phát triển thêm của startup.
Nhìn chung việc định giá doanh nghiệp ở bất kỳ giai đoạn nào trong vòng đời của nó cũng đều rất khó khăn, đặc biệt là thời kỳ đầu. 4 phương pháp kể trên giúp nhà sáng lập startup và cả nhà đầu tư có cái nhìn rõ hơn về giá trị tại mỗi vòng.
Dĩ nhiên cũng có những ngoại lệ. Tuy nhiên một vài ngoại lệ là hợp lý còn một số khác thì không. Ngoài ra bên cạnh định giá, còn rất nhiều yếu tố khác cần được cân nhắc khi muốn đầu tư vào một startup. Nhưng nói tóm lại, với một cơ hội đầu tư vào startup, đầu tiên bạn cần phải định giá được giá trị của nó trước và xem xét tới những yếu tố tiếp theo để đưa ra quyết định.
Biết Tuốt | Chat Online | |
26/05/2019 11:59:15 |
Tuy nhiên theo mình thì cách định giá thế nào phụ thuộc vào việc bạn vẽ ra bức tranh trong tương lai làm cho nhà đầu tư tin là đúng như thế.
Giá trị Startup hiện tại sẽ bằng: 1/5 giá trị tương lai sau 5 năm hoặc bằng 1/10 giá trị tương lai sau 10 năm theo cách bạn vẽ ra làm cho nhà đầu tư tin nó là đúng.
Giá trị Startup hiện tại sẽ bằng: 1/5 giá trị tương lai sau 5 năm hoặc bằng 1/10 giá trị tương lai sau 10 năm theo cách bạn vẽ ra làm cho nhà đầu tư tin nó là đúng.
Phạm Văn Cao | Chat Online | |
26/10/2019 22:08:38 |
Những yếu tố tác động giá trị startup khi chưa có doanh thu
Chất lượng nhân sự, xu hướng thị trường, lực cầu, rủi ro... là những yếu tố ảnh hưởng giá trị startup khi chưa phát sinh doanh thu, theo Mass Challenge.
"Không giống như những doanh nghiệp đã hoạt động ổn định, startup trong giai đoạn sớm thiếu hụt nhiều cơ sở để định giá, bao gồm doanh thu, lợi nhuận, chi phí, dòng tiền..." nhà hoạch định chiến lược thương hiệu Robbie Richards cho biết.
Dù sử dụng phương pháp tính toán nào, mọi con số đều là ước tính và phụ thuộc nhiều vào thỏa thuận giữa startup và các nhà đầu tư khi gọi vốn. Trước khi bước vào phiên thuyết trình, startup cần đặt lên bàn cân những yếu tố quan trọng có thể tác động đến giá trị doanh nghiệp.
Khả năng tăng trưởng
Vẫn có những con số liên quan đến hoạt động của startup để các nhà đầu tư đánh giá tiềm năng. Trước hết, số lượng người dùng cơ sở chứng minh startup đang được quan tâm trên thị trường. Tập khách hàng càng cao thể hiện mô kình kinh doanh và mô hình sản phẩm càng hấp dẫn.
Kế đến là hiệu quả marketing. Nếu bạn có thể thu hút nhiều khách hàng chất lượng và trung thành với mức chi phí quảng bá tiếp thị thấp, giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng đáng kể.
Tốc độ tăng trưởng quy mô doanh nghiệp về nguồn vốn, số lượng sản phẩm, người dùng... đều có thể là cơ sở để thuyết phục giới đầu tư tin tưởng vào tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Kế hoạch và khả năng mở rộng quy mô cũng sẽ là yếu tố đáng cân nhắc.
Giá trị đội ngũ sáng lập
Trong khi bản thân startup chưa thu về kết quả ấn tượng, nhà đầu tư sẽ nhìn vào chất lượng nhân sự để xác định khả năng thành công của doanh nghiệp. Các yếu tố quan trọng bao gồm kinh nghiệm của đội ngũ sáng lập hoặc những cộng sự gắn bó từ ngày đầu.
Kế đến là sự đa dạng về chuyên môn để đảm bảo luôn có những người am hiểu về từng lĩnh vực trong doanh nghiệp, ví dụ công nghệ, phát triển thị trường, xây dựng sản phẩm, tiếp thị, nhân sự...
Cuối cùng là mức độ cam kết của nhân sự đối với startup. Nhà đầu tư luôn muốn đồng hành cùng một đội ngũ có sự gắn bó và cam kết hoạt động lâu dài, ít nhất cho đến khi startup đạt thành tựu nhất định.
Nguyên mẫu sản phẩm
Một bản thử nghiệm, nguyên mẫu hoặc MVP (sản phẩm giá trị sử dụng tối thiểu) là cần thiết để trình bày về mô hình sản phẩm và mô hình kinh doanh của startup. Đó cũng là một tín hiệu để xác định sản phẩm đã sẵn sàng tung ra thị trường hay chưa, từ đó ảnh hưởng lớn đến giá trị doanh nghiệp.
Minh họa về một nguyên mẫu sản phẩm. Khi sản phẩm của startup là phương tiện vận chuyển, nguyên mẫu dù cho có thô sơ nhưng cũng cần đáp ứng tối thiểu nhu cầu và đặc tính chính của sản phẩm. Hình vẽ: Henrik Kniberg.
Cung - cầu
Câu hỏi quan trọng nhất với một startup là sản phẩm giải quyết được vấn đề trên thị trường, điều đó đồng nghĩa cần xác định cán cân cung cầu khi định giá doanh nghiệp. Các yếu tố thị trường như tính cạnh tranh, tiềm lực của đối thủ, những mô hình sản phẩm tương tự... cũng sẽ tác động đến giá trị startup.
Những ý tưởng đột phá, độc đáo có thể giúp startup hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư, tuy nhiên chưa thể khẳng định ý tưởng và sản phẩm độc đáo ấy đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và sẽ được người dùng đón nhận trong tương lai.
Xu hướng thị trường
Những ngành công nghiệp mới nổi như hệ sinh thái mở, thương mại điện tử, trí tuệ nhân tạo, phát hành game di động... đang có sức hấp dẫn lớn. Điều đó đồng nghĩa quy mô thị trường rộng mở, cơ hội thành công đối với startup gia tăng, nhu cầu về sản phẩm dịch vụ mới cao. Thời đại kỹ thuật số xoay quanh các thiết bị di động có thể là "miếng bánh lớn" giúp startup ghi dấu ấn tốt hơn, đồng nghĩa giá trị doanh nghiệp cao hơn.
Biên lợi nhuận
Cuối cùng, những sản phẩm có biên lợi nhuận thấp dễ bị các nhà đầu tư bỏ qua hoặc gặp khó khi huy động vốn. Giá trị doanh nghiệp theo đó cũng giảm đi do chi phí cao, lợi nhuận không tương xứng, kém hấp dẫn torng mắt nhà đầu tư.
Tuy vậy, mô hình kinh doanh về lâu dài cũng có thể là bảo chứng cho thành công của startup trong những lĩnh vực có biên lợi nhuận được cho là không đủ hấp dẫn nhà đầu tư.
Chất lượng nhân sự, xu hướng thị trường, lực cầu, rủi ro... là những yếu tố ảnh hưởng giá trị startup khi chưa phát sinh doanh thu, theo Mass Challenge.
"Không giống như những doanh nghiệp đã hoạt động ổn định, startup trong giai đoạn sớm thiếu hụt nhiều cơ sở để định giá, bao gồm doanh thu, lợi nhuận, chi phí, dòng tiền..." nhà hoạch định chiến lược thương hiệu Robbie Richards cho biết.
Dù sử dụng phương pháp tính toán nào, mọi con số đều là ước tính và phụ thuộc nhiều vào thỏa thuận giữa startup và các nhà đầu tư khi gọi vốn. Trước khi bước vào phiên thuyết trình, startup cần đặt lên bàn cân những yếu tố quan trọng có thể tác động đến giá trị doanh nghiệp.
Khả năng tăng trưởng
Vẫn có những con số liên quan đến hoạt động của startup để các nhà đầu tư đánh giá tiềm năng. Trước hết, số lượng người dùng cơ sở chứng minh startup đang được quan tâm trên thị trường. Tập khách hàng càng cao thể hiện mô kình kinh doanh và mô hình sản phẩm càng hấp dẫn.
Kế đến là hiệu quả marketing. Nếu bạn có thể thu hút nhiều khách hàng chất lượng và trung thành với mức chi phí quảng bá tiếp thị thấp, giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng đáng kể.
Tốc độ tăng trưởng quy mô doanh nghiệp về nguồn vốn, số lượng sản phẩm, người dùng... đều có thể là cơ sở để thuyết phục giới đầu tư tin tưởng vào tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Kế hoạch và khả năng mở rộng quy mô cũng sẽ là yếu tố đáng cân nhắc.
Giá trị đội ngũ sáng lập
Trong khi bản thân startup chưa thu về kết quả ấn tượng, nhà đầu tư sẽ nhìn vào chất lượng nhân sự để xác định khả năng thành công của doanh nghiệp. Các yếu tố quan trọng bao gồm kinh nghiệm của đội ngũ sáng lập hoặc những cộng sự gắn bó từ ngày đầu.
Kế đến là sự đa dạng về chuyên môn để đảm bảo luôn có những người am hiểu về từng lĩnh vực trong doanh nghiệp, ví dụ công nghệ, phát triển thị trường, xây dựng sản phẩm, tiếp thị, nhân sự...
Cuối cùng là mức độ cam kết của nhân sự đối với startup. Nhà đầu tư luôn muốn đồng hành cùng một đội ngũ có sự gắn bó và cam kết hoạt động lâu dài, ít nhất cho đến khi startup đạt thành tựu nhất định.
Nguyên mẫu sản phẩm
Một bản thử nghiệm, nguyên mẫu hoặc MVP (sản phẩm giá trị sử dụng tối thiểu) là cần thiết để trình bày về mô hình sản phẩm và mô hình kinh doanh của startup. Đó cũng là một tín hiệu để xác định sản phẩm đã sẵn sàng tung ra thị trường hay chưa, từ đó ảnh hưởng lớn đến giá trị doanh nghiệp.
Minh họa về một nguyên mẫu sản phẩm. Khi sản phẩm của startup là phương tiện vận chuyển, nguyên mẫu dù cho có thô sơ nhưng cũng cần đáp ứng tối thiểu nhu cầu và đặc tính chính của sản phẩm. Hình vẽ: Henrik Kniberg.
Cung - cầu
Câu hỏi quan trọng nhất với một startup là sản phẩm giải quyết được vấn đề trên thị trường, điều đó đồng nghĩa cần xác định cán cân cung cầu khi định giá doanh nghiệp. Các yếu tố thị trường như tính cạnh tranh, tiềm lực của đối thủ, những mô hình sản phẩm tương tự... cũng sẽ tác động đến giá trị startup.
Những ý tưởng đột phá, độc đáo có thể giúp startup hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư, tuy nhiên chưa thể khẳng định ý tưởng và sản phẩm độc đáo ấy đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và sẽ được người dùng đón nhận trong tương lai.
Xu hướng thị trường
Những ngành công nghiệp mới nổi như hệ sinh thái mở, thương mại điện tử, trí tuệ nhân tạo, phát hành game di động... đang có sức hấp dẫn lớn. Điều đó đồng nghĩa quy mô thị trường rộng mở, cơ hội thành công đối với startup gia tăng, nhu cầu về sản phẩm dịch vụ mới cao. Thời đại kỹ thuật số xoay quanh các thiết bị di động có thể là "miếng bánh lớn" giúp startup ghi dấu ấn tốt hơn, đồng nghĩa giá trị doanh nghiệp cao hơn.
Biên lợi nhuận
Cuối cùng, những sản phẩm có biên lợi nhuận thấp dễ bị các nhà đầu tư bỏ qua hoặc gặp khó khi huy động vốn. Giá trị doanh nghiệp theo đó cũng giảm đi do chi phí cao, lợi nhuận không tương xứng, kém hấp dẫn torng mắt nhà đầu tư.
Tuy vậy, mô hình kinh doanh về lâu dài cũng có thể là bảo chứng cho thành công của startup trong những lĩnh vực có biên lợi nhuận được cho là không đủ hấp dẫn nhà đầu tư.
Tags: Cách định giá Startup công nghệ,Cách định giá startup,Định giá startup như thế nào,định giá doanh nghiệp startup,Định giá startup,Startup,Khởi nghiệp
Câu hỏi mới nhất:
- Chỉ mình cách lấy point với ạ?
- Làm cách nào để khôi phục ảnh cũ trong phần chat lazi?
- Ai chỉ cho mình cách học, phương pháp học thuộc nhanh và hiệu quả cho môn Văn, KHTN, Lịch sử và Địa Lý được không ạ?
- Các phương pháp học tiếng Anh hiệu quả nhất?
- Que này là gì?
- Tại sao con gái lại phải đeo bông tai (vàng)?
- Tìm từ nói về sự gắn kết nghĩa tình vợ chồng?
- Có chí làm quan, có gan làm giàu nghĩa là gì vậy?
- Có phải do phím bị liệt không?
- Cách viết ngày tháng trong tiếng Anh: ngày trong tháng, ngày trong tuần, tháng trong năm
- Xem tất cả câu hỏi >>
Câu hỏi khác:
- Mình học lớp 6, điểm trung bình môn 4.3. Toán 4.3, Ngữ văn 3.1. Các môn khác trên 4.0, ...
- Tìm "Support" môn Toán 11 + 12 (chưa có trả lời)
- Có một môn trung bình dưới 3.5 vậy cần thi lại mấy phẩy là đủ?
- Văn được 8.5 mà Toán có 5 điểm. Mọi môn khác đều đạt 6 điểm. Vậy em được học sinh gì ạ?
- Tính cho em điểm Văn: Hệ số 1: 9; 9. Hệ số 2: 7; 7; 7; 8. Hệ số 3: 8.5
- Cho mình hỏi điểm trung bình các môn trên 7.0 mà 2 môn Văn Toán theo thứ tự là 5.4 và 6.0 ...
- Cho em hỏi lớp 7 mà Toán có 2,8 lên lớp không?
- Mọi người ơi cho em hỏi nếu Địa 9.5, Toán 5.5, Văn 6.75 mà Sinh học có 3.5 điểm thì có ở ...
- Nếu Toán 6.4 mà Ngữ văn 7.1 thì được học sinh gì?
- Điểm trung bình môn Anh cả năm em được 4.6, các môn còn lại đều trên trung bình thì có ...
Bạn có câu hỏi cần giải đáp, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu hỏi
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!