Hỏi đáp tổng hợp Gửi câu hỏi Gửi khảo sát
Nhiệt miệng là gì? Làm sao để chữa nhiệt miệng?
NoName.728 | |
24/07/2016 02:20:23 |
2.791 lượt xem
Trả lời / Bình luận (4)
NoName.788 | |
24/07/2016 02:20:59 |
Nhiệt miệng thường gọi là chứng viêm loét niêm mạc miệng hoặc Loét aphthous (loét áp - tơ) là một vấn đề phổ biến và đau đớn, aphthae lành tính thường có đường kính nhỏ hơn 1 cm và nông. Loét aphthous thường xảy ra kết hợp với các triệu chứng của viêm màng bồ đào (uveitis), loét sinh dục, viêm kết mạc, viêm khớp, sốt hoặc adenopathy, nên phải tìm kiếm một nguyên nhân nghiêm trọng khác có thể đang xảy ra. Sự hiểu biết chưa rõ ràng về nguyên nhân của viêm loét aphthous dẫn đến phương pháp điều trị chủ yếu là theo kinh nghiệm. Những phương pháp điều trị bao gồm: Thuốc kháng sinh, chống viêm, điều biến miễn dịch (thay đổi cơ địa), thuốc bôi trực tiếp, các thảo dược và các biện pháp khắc phục dân gian.
I- Triệu chứng và diễn biến
Loét Aphthous không có mối liên quan đến thể trạng béo hay gầy, khỏe hay thường xuyên ốm yếu. Một số trường hợp thấy có tính chất gia đình, trong nhà có nhiều người cùng bị. Bệnh biểu hiện có tính chất chu kỳ lặp lại gần giống nhau, mỗi đợt kéo dài khoảng 10 - 15 ngày, bắt đầu bằng việc xuất hiện một hoặc vài ba đốm trắng nhỏ hơi đau, hơi nổi gồ lên trong niêm mạc miệng. Đốm trắng này to dần rồi vài ngày sau đồng loạt vỡ ra tạo thành vết loét. Vết loét lớn dần, nông, thường không quá lớp biểu mô, bờ nham nhở, ăn mặn rất xót, nói đau cản trở giao tiếp. Nếu không có biến chứng nặng vết loét tự lành dần sau 7- 10 ngày.
+ Giai đoạn đầu: Xuất hiện các điểm tổn thương, có thể là một điểm hoặc nhiều điểm trong niêm mạc miệng với đặc điểm là những nốt nhỏ 1 –2 mm hơi rắn và hơi gồ lên mặt niên mạc, hơi đau. Sau vài ngày các điểm này lớn dần bên trong có dịch viêm nổi phồng căng bóng hoặc vỡ rất nhanh để lại ổ hoại tử
+ Giai đoạn ổ hoại tử:
Khi các mụn nước vỡ, hình thành ổ hoại tử là những đốm to 2 – 3 mm màu vàng nhạt, xơ dai bám phủ trên mặt, mảng hoại tử này sẽ tan rã dần thành dịch viêm hòa lẫn vào nước bọt và đi xuống đường tiêu hóa, giai đoạn này thường ngắn, chỉ kéo dài 1- 2 ngày hoặc ngắn hơn nữa.
+ Giai đoạn ổ loét: Đây là giai đoạn kéo dài nhất, thường từ 5 - 7 ngày, có thể tới 15 ngày hay lâu hơn nữa. Thông thường bệnh nhân không chú ý, khi thấy ăn mặn xót và nói đau mới phát hiện thì bệnh đã tiến triển tới giai đoạn này.
Thông thường nếu không có biến chứng các vết loét tự lành không để lại sẹo sau 5 - 7 ngày, bệnh nhân ăn uống sinh hoạt bình thường, rồi lại tái diễn đợt khác tương tự. Tùy từng người, và trên cùng một người bệnh cũng tùy từng thời gian mà thời gian lành bệnh dài ngắn khác nhau.
II- Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
1- Nguyên nhân
Aphthae thường xuất hiện ở tuổi thanh thiếu niên, và có xu hướng trong cùng một gia đình có nhiều người bị aphthae. Có một nghịch lý là: hút thuốc lá cung cấp một hiệu ứng phần nào bảo vệ chống lại các yếu tố aphthae. Các nguyên khác như: Căng thẳng, chấn thương vật lý hoặc hóa học, thực phẩm nhạy cảm và nhiễm trùng đã được đề xuất. Các nguyên nhân truyền nhiễm như Helicobacter pylori và virus herpes simplex đã được nghiên cứu nhưng chưa được thống nhất.
Nguyên nhân chính xác của loét aphthous chưa được biết rõ, nhưng sự thiếu hụt vitamin B12,sắt, axit folic, thể chất chấn thương, đột ngột giảm cân, dị ứng thức ăn, phản ứng của hệ miễn dịch có thể góp phần vào sự phát triển của chúng. Nicorandil và một số loại hóa trị liệu cũng được ghi nhận có liên quan với loét aphthous Một nghiên cứu gần đây cho thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa loét áp-tơ với các dị ứng với sữa bò.
Chấn thương vùng miệng là nguyên nhân phổ biến nhất, trầy xước do bàn chải đánh răng, rách với thực phẩm sắc hoặc mài mòn (như bánh mì nướng, khoai tây chiên hay đồ vật khác), do răng vô tình cắn phải (đặc biệt là phổ biến với hàm răng nanh sắc), sau khi mất răng nha khoa niềng răng có thể gây loét aphthous do gây chấn thương màng nhầy.
Các yếu tố khác, như là chất kích thích hóa học hoặc thương tích nhiệt cũng có thể dẫn đến sự phát triển của vết loét. Sử dụng kem đánh răng mà không có natri lauryl sulfat (SLS) có thể làm giảm tần số loét aphthous, nhưng một số nghiên cứu đã cho thấy không có mối liên quan giữa SLS trong kem đánh răng và loét aphthous. Bệnh Celiac đã được đề xuất như một nguyên nhân gây loét aphthous; nghiên cứu nhỏ đối với bệnh nhân bị bệnh celiac (33%) đã chứng tỏ một kết luận về mối liên quan giữa bệnh và kiểm soát loét aphthous, một số bệnh nhân được hưởng lợi từ loại bỏ gluten từ chế độ ăn uống của họ.
2- Cơ chế bệnh sinh
Sinh lý bệnh của viêm loét aphthous chưa được hiểu rõ. Về mặt mô học, aphthae chứa một mononuclearinfiltrate thâm nhập với một fibrin coating, aphthae tái phát có thể thay đổi miễn dịch tế bàotrung gian tại chỗ T và B-cell phản ứng cũng đã được báo cáo là bị thay đổi ở loét apthous tái phát. Loét miệng aphthous cũng thường thấy trong bệnh Crohn. Không có dấu hiệu cho thấy loét aphtous là liên quan đến kinh nguyệt,mang thai và mãn kinh.
III- Chẩn đoán phân biệt
Một số điều kiện cần được xem xét trong việc chẩn đoán phân biệt khi đánh giá các bệnh nhân bị tái phát aphthae
Điều cơ bản là aphthae lành tính có xu hướng các vết loét nhỏ và thường xuyên hơn, tự giới hạn, tự lành khi so sánh với các bệnh nghiêm trọng hơn ví dụ như: suy giảm miễn dịch virus (HIV); bác sĩ nên cân nhắc việc thử nghiệm HIV ở những aphthae lớn và chậm chậm khỏi.
- Cần chẩn đoán phân biệt giữa loét Aphthous với herpes: Khi nhuộm Tzank, tiêu bản từ một tổn thương herpetic sẽ bao gồm các tế bào khổng lồ, các treponemal,virus, vi khuẩn và nấm. Sinh thiết đơn độc hoặc kết hợp với các nguồn khác của tổn thương hoặc thử nghiệm máu có thể hỗ trợ trong phân biệt tác nhân gây bệnh.
- Bệnh tự miễn dịch Một số bệnh tự miễn dịch có thể bắt chước viêm loét aphthous lành tính. Behçet của hội chứng là một vasculitis tự miễn dịch gây ra tái phát loét miệng và bộ phận sinh dục, uveitis (viêm màng bồ đào) và retinitis(loét sinh dục). aphthae và Behçet có thể cùng tồn tại trên một cơ thể bệnh. Hội chứng Behçet có thể chiếm khoảng 43 – 100% bệnh nhân bị tái phát loétaphthous.
- Hội chứng Reiter liên kết với vết loétmiệng, uveitis, viêm kết mạc và viêm khớp HLA B27 dương tính sau Hoa urethritis hoặc bacillary dysentery. - Bệnh Crohn, có thể kết hợp loét miệng, Lupus ban đỏ, bullous pemphigoid và pemphigusvulgaris. Trong tất cả những điều kiện này, các triệu chứng liên quan nên được xem xét để chẩn đoán phân biệt với aphthae lành tính, thường xuyên. - Apthae với ung thư vùng miệng Cần được xem xét khi thường xuyên viêm loét hoặc chậm lành, sinh thiết hoặc phẫu thuật sinh thiết có thể giúp làm rõ điều này khác biệt này.
IV- Chữa trị
Có thể dùng thuốc hoặc một số loại đồ ăn uống có tính mát.
A. Dùng thuốc
1 - Dùng thuốc bôi tại chỗ
+ KAMISTAD – Gel N: Thuốc chữa viêm nhiễm răng miệng, Kamistad – Gel N của Đức được chiết xuất từ dịch chiết hoa cúc, loại thảo dược hoạt tính kháng khuẩn, kháng viêm cao, giảm đau.
+ ORACORTIA: Thành phần Triamcinoloneacetonide. Là loại thuốc kháng viêm dạng Corticoide có tác dụng điều trị hỗ trợ làm giảm tạm thời các triệu chứng viêm nhiễm khoang miệng hay tổn thương dạng loét do chấn thương.
Chống chỉ định: Mẫn cảm với thành phần thuốc. Tổn thương do nhiễm nấm, bạch biến, herpes, khối u mới mọc, mụn trứng cá đỏ, loét hạch. Không dùng trên vùng da rộng hay lượng lớn thời gian dài. Phụ nữ có thai/cho con bú. Tác dụng phụ: Teo da, ban đỏ, rạn và làm mỏng da, rạn da đặc biệt vùng nhiều nếp gấp
+ Các loại thuốc bôi không chuyên dụng khác:
- Nitrate bạc: Bôi trực tiếp lên tổn thương, thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thương tổn trong vòng 3 - 5 ngày.
- Debacterol là phức hợp phenol: sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tương tự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảm giác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 - 5 ngày. Thuốc bán theo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lần mỗi ngày.
- Các loại kem bôi có chứa triamcinolone acetonide:Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốt nhất là sau bữa ăn chính và trước khi đi ngủ.
- Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap): Dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và lành loét nhanh chóng. Tuy nhiên, thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gây kích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.
- Gel lidocaine: Gel 2%lidocaine: Bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốc sau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.
2 - Dùng thuốc bôi tạo màng ngăn
Các vết loét trong niêm mạc miệng rất lâu lành là do thường xuyên bị chìm trong nước bọt và dịch thức ăn. Một phương pháp mới được đưa ra để chữa trị chứng loét miệng này là: dùng thuốc bôi trực tiếp lên vết loét, phối hợp 4 loại thuốc: Sunfamethoxazon, trimethoprim, Serathiopeptit, hoạt chất tạo màng ngăn.
Thuốc vào trong miệng gặp nước bọt và dịch huyết tương rỉ ra từ chỗ tổn thương tạo thành màng, màng này đủ sức chịu đựng được sự tấn công của nước bọt và dịch thức ăn từ 6 - 8 giờ, cứ 6 - 7 giờ bôi thuốc một lần sẽ tạo được màng ngăn cách vết loét với dịch khoang miệng, từ đó làm cho vết loét rất nhanh lành. Đồng thời thuốc có tác dụng chống nhiễm khuẩn, kháng viêm, ngăn chặn hiện tượng tái phát. Kết hợp uống thêm vitamin, thuốc tăng cường chức năng gan hoặc kháng sinh nếu thấy cần thiết.
Sau 6 - 7 lần bôi thuốc xuất hiện các dấu hiệu lành vết loét, sau 1 - 2 lần bôi thuốc ăn mặn không xót (do thuốc tạo màng ngăn). Tiếp tục bôi thuốc khi loét tái phát (do đặc điểm của bệnh là tái diễn từng đợt cho, nên chỉ bôi thuốc lúc có viêm loét) thấy dễn biến viêm loét nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi, bệnh khỏi theo lộ trình giảm dần đi và thưa dần ra.
3 - Các phương pháp điều trị theo toa
Chế phẩm corticosteroid có chứa hydrocortisone acetonide hemisuccinate hoặc triamcinolone để kiểm soát các triệu chứng có hiệu quả trong điều trị loét nặng.
Việc áp dụng các nitrat bạc để đốt cháy những vết đau; có tác dụng giảm đau nhất thời nhưng không giảm thời gian lành vết loét, ở trẻ em nó có thể gây ra sự đổi màu răng nếu răng vẫn còn đang phát triển. Việc sử dụng tetracycline là gây tranh cãi, cũng như là điều trị với Levamisole, colchicine, gamma-globulin, Dapsone, thay thế estrogen và các thuốc ức chế monoamine oxidase.
Một thuốc mới hơn được gọi là Debacterol, một loại sulfuric acid / phenolics là giải pháp được sử dụng để đốt cháy vết đau, cho thấy có tác dụng giảm đau và giảm thời gian chữa bệnh. Tuy nhiên, mãi tới gần đây mới chấp thuận bởi FDA.
Bệnh nặng đôi khi được điều trị bằng corticosteroid như prednisone và thuốc chống virus như acyclovir.
B. Dùng đồ ăn uống có tính mát
– Sử dụng bột sắn dây ngày 2 lần giúp giảm đau rát, theo Đông Y, bột sắn dây có vị ngọt, mát, tính bình, đi vào tỳ, vị, phế, bàng quang có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm dịu mát cơ thể nhanh chóng. Đối với những người bị nhiệt miệng thì nên dùng 10 – 15 g/ngày, tùy theo thể trạng và tuổi của từng người, có thể giảm hoặc tăng thêm liều dùng, pha loảng với nước đun sôi để nguội, không cho đường là tốt nhất, với trẻ nhỏ cho uống chín tốt hơn uống sống
– Nước cốt dừa chữa nhiệt miệng: Nghiền nát vài mảnh cùi dừa, sau đó ép lấy nước và dùng để súc miệng khoảng 3 đến 4 lần mỗi ngày.
– Đun sôi một cốc nước cùng với 1 thìa hạt rau mùi. Gạn lấy nước dùng súc miệng. Mỗi ngày dùng để súc miệng từ 3 đến 4 lần.
– Dùng lá húng chó để trị nhiệt miệng bằng cách nhai 5 đến 6 lá rau húng nhấp vài ngụm nước lạnh. Mỗi ngày 5-6 lần.
– Ăn cà chua sống là một cách chữa nhiệt miệng một cách hiệu quả. Hoặc bạn cũng có thể ngậm nước ép cà chua mỗi ngày khoảng 3 – 4 lần sẽ nhanh chóng chữa được nhiệt miệng.
– Khế chua tươi 2 – 3 quả, giã nát, đổ ngập nước và đun sôi một lúc, chờ khi thuốc nguội thì ngậm và nuốt dần, ngậm nhiều lần trong ngày. Khế chua giúp sinh tân dịch nhiều hơn, thanh nhiệt cũng tốt hơn khế ngọt.
– Dùng cỏ mực (nhọ nồi) rửa sạch, chỉ lấy lá, giã nát, ép lấy nước cốt, hòa với ít mật ong. Dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 – 3 lần.
– Dùng lá rau ngót rửa sạch, chỉ lấy lá, giã nát, ép lấy nước cốt, hòa với ít mật ong. Dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 đến 3 lần. Cách chữa nhiệt miệng này có tác dụng giống như cỏ nhọ nồi (cỏ mực).
– Củ cải đem giã củ cải sống khoảng 300g rồi vắt lấy nước hòa thêm một ít nước lọc, súc miệng ngày 3 lần, dùng 2 ngày là khỏi.
– Uống nước chè tươi hàng ngày có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, đồng thời có tác dụng bảo vệ răng miệng rất hiệu quả do bản chất chống oxy hóa. Có thể dùng ống hút khi uống nước để giảm đau. Tuy nhiên, chúng ta không nên lạm dụng, uống quá nhiều hoặc đun quá đặc sẽ gây ra tác dụng ngược đối với những người dễ bị nhạy cảm. Theo tiến sĩ Zuo Feng Zhang, nhà nghiên cứu dịch tễ học của Đại học Maryland, mỗi người nên dùng 2-3 cốc trà xanh mỗi ngày sẽ rất có lợi cho sức khỏe, nhiều nghiên cứu khác thì cho rằng dùng hạn chế tối đa 10 tách trà xanh/ ngày tốt cho sức khỏe nếu bạn không bị trà xanh gây mất ngủ.
– Trong nước cam/chanh có chứa hàm lượng vitamin C tự nhiên cao, rất có lợi trong việc thúc đẩy hệ thống miễn dịch, chống oxy hóa, kháng viêm. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong nước cam có chứa chất folate, loại vitamin B đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành của các tế bào mới, thúc đẩy quá trình làm lành các vết thương, vết lở loét. Với đặc tính chống viêm có hiệu quả, do đó sẽ rất có ích cho những người bị nhiệt miệng.
– Theo các y thư cổ, nhân trần vị hơi đắng, tính hơi hàn, có công dụng thanh nhiệt, lợi thấp, lợi mật, được dùng để chữa các chứng hoàng đản, tiểu tiện bất lợi, viêm loét da do phong thấp. Nếu mắc chứng da viêm nề và ngứa nhiều, dùng nhân trần 30 g, lá sen 15 g sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 g với nước lọc có pha chút mật ong.
– Uống nước rau má, râu ngô hàng ngày thay nước lọc, uống đủ 1,5 - 2 lít /ngày. Rau má có khả năng làm lành vết thương và giảm stress, do đó mà nó có tác dụng tuyệt vời trong việc chữa trị nhiệt miệng. Theo nghiên cứu của các chuyên gia về sức khỏe, trong cây rau má có chứa hóa chất Triterpenoids, có tác dụng làm lành vết thương, vết lở loét rất nhanh, tăng cường chất chống oxy hóa tại vị trí vết thương, vết lở loét. Nếu bị nhiệt miệng thì cách tốt nhất là chúng ta giã nhuyễn, vắt lấy nước uống mà không cần phải tuân thủ nguyên tắc về số lượng hay thời gian sử dụng.
– Rau diếp cá có vị cay, hơi lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng. Gần đây Y học hiện đại đã nghiên cứu và nhận thấy trong rau diếp cá có tính kháng khuẩn, tiêu diệt ký sinh trùng, do đó mà rau diếp có có tác dụng rất tuyệt vời trong việc điều trị nhiệt miệng. Chúng ta có thể giã nhuyễn, vắt lấy nước uống hoặc xay làm sinh tố, dùng cả nước để uống và ăn cả bả rau diếp cá sẽ rất tốt cho việc điều trị và làm mát cơ thể.
– Theo y học cổ truyền, nghệ vàng có vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu và giảm đau, trị mụt nhọt, sưng do viêm… cùng với mật ong có tính sát khuẩn cao sẽ giúp các vùng bị nhiệt bị "đánh bại" nhanh chóng.
Ngoài những cách chữa nhiệt miệng trên ra, thì trong mọi trường hợp nhiệt miệng, yếu tố được đặt lên hàng đầu là cần tăng cường vệ sinh răng miệng để tránh bội nhiễm, hạn chế diễn biến xấu. Người bệnh được khuyên sử dụng những loại kem đánh răng có tinh chất chiết xuất từ thiên nhiên như trà xanh, bạc hà để tránh gây ảnh hưởng đến niêm mạc miệng, đồng thời làm "mát" hơn cho miệng từ bên trong.
VII- Phòng ngừa
Nha khoa và các biện pháp phòng ngừa
- Thường xuyên sử dụng nước súc miệng không cồn có thể giúp ngăn ngừa hoặc giảm bớt tần suất của các vết loét. Trong thực tế, nghiên cứu đề nghị chính thức nước súc miệng để tạm thời có thể giúp giảm đau.
- Trong một số trường hợp, thay đổi kem đánh răng có thể ngăn ngừa viêm loét aphthous, trong các nghiên cứu xem xét vai trò của natri sulfat dodecyl (natri lauryl sulfat hay SLS), một chất tẩy rửa có ở hầu hết các loại thuốc đánh răng. Sử dụng kem đánh răng không có hợp chất này, ở một số nghiên cứu cho thấy làm giảm số lượng, kích thước và tái phát loét.
- Niềng răng Nha khoa là một chấn thương vật lý phổ biến có thể dẫn đến viêm loét aphthous, khung nha khoa được che phủ bằng sáp có thể làm giảm hiện tượng mài mòn niêm mạc này. Phòng tránh các loại chấn thương vật lý và hóa học sẽ ngăn chặn một số loét, nhưng thường là chấn thương do tai nạn, công tác phòng chống kiểu này thường không được thực hiện.
Liệu pháp dinh dưỡng
Thiếu hụt Kẽm (Zn) đã được phát hiện ở những người bị tái phát viêm loét aphthous. Các nghiên cứu nhỏ nghiên cứu vai trò của bổ sung kẽm hầu hết là có kết quả tích cực đặc biệt là đối với những người bị thiếu hụt, mặc dù một số nghiên cứu đã tìm thấy việc bổ sung kẽm không có tác dụng điều trị.
I- Triệu chứng và diễn biến
Loét Aphthous không có mối liên quan đến thể trạng béo hay gầy, khỏe hay thường xuyên ốm yếu. Một số trường hợp thấy có tính chất gia đình, trong nhà có nhiều người cùng bị. Bệnh biểu hiện có tính chất chu kỳ lặp lại gần giống nhau, mỗi đợt kéo dài khoảng 10 - 15 ngày, bắt đầu bằng việc xuất hiện một hoặc vài ba đốm trắng nhỏ hơi đau, hơi nổi gồ lên trong niêm mạc miệng. Đốm trắng này to dần rồi vài ngày sau đồng loạt vỡ ra tạo thành vết loét. Vết loét lớn dần, nông, thường không quá lớp biểu mô, bờ nham nhở, ăn mặn rất xót, nói đau cản trở giao tiếp. Nếu không có biến chứng nặng vết loét tự lành dần sau 7- 10 ngày.
+ Giai đoạn đầu: Xuất hiện các điểm tổn thương, có thể là một điểm hoặc nhiều điểm trong niêm mạc miệng với đặc điểm là những nốt nhỏ 1 –2 mm hơi rắn và hơi gồ lên mặt niên mạc, hơi đau. Sau vài ngày các điểm này lớn dần bên trong có dịch viêm nổi phồng căng bóng hoặc vỡ rất nhanh để lại ổ hoại tử
+ Giai đoạn ổ hoại tử:
Khi các mụn nước vỡ, hình thành ổ hoại tử là những đốm to 2 – 3 mm màu vàng nhạt, xơ dai bám phủ trên mặt, mảng hoại tử này sẽ tan rã dần thành dịch viêm hòa lẫn vào nước bọt và đi xuống đường tiêu hóa, giai đoạn này thường ngắn, chỉ kéo dài 1- 2 ngày hoặc ngắn hơn nữa.
+ Giai đoạn ổ loét: Đây là giai đoạn kéo dài nhất, thường từ 5 - 7 ngày, có thể tới 15 ngày hay lâu hơn nữa. Thông thường bệnh nhân không chú ý, khi thấy ăn mặn xót và nói đau mới phát hiện thì bệnh đã tiến triển tới giai đoạn này.
Thông thường nếu không có biến chứng các vết loét tự lành không để lại sẹo sau 5 - 7 ngày, bệnh nhân ăn uống sinh hoạt bình thường, rồi lại tái diễn đợt khác tương tự. Tùy từng người, và trên cùng một người bệnh cũng tùy từng thời gian mà thời gian lành bệnh dài ngắn khác nhau.
II- Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
1- Nguyên nhân
Aphthae thường xuất hiện ở tuổi thanh thiếu niên, và có xu hướng trong cùng một gia đình có nhiều người bị aphthae. Có một nghịch lý là: hút thuốc lá cung cấp một hiệu ứng phần nào bảo vệ chống lại các yếu tố aphthae. Các nguyên khác như: Căng thẳng, chấn thương vật lý hoặc hóa học, thực phẩm nhạy cảm và nhiễm trùng đã được đề xuất. Các nguyên nhân truyền nhiễm như Helicobacter pylori và virus herpes simplex đã được nghiên cứu nhưng chưa được thống nhất.
Nguyên nhân chính xác của loét aphthous chưa được biết rõ, nhưng sự thiếu hụt vitamin B12,sắt, axit folic, thể chất chấn thương, đột ngột giảm cân, dị ứng thức ăn, phản ứng của hệ miễn dịch có thể góp phần vào sự phát triển của chúng. Nicorandil và một số loại hóa trị liệu cũng được ghi nhận có liên quan với loét aphthous Một nghiên cứu gần đây cho thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa loét áp-tơ với các dị ứng với sữa bò.
Chấn thương vùng miệng là nguyên nhân phổ biến nhất, trầy xước do bàn chải đánh răng, rách với thực phẩm sắc hoặc mài mòn (như bánh mì nướng, khoai tây chiên hay đồ vật khác), do răng vô tình cắn phải (đặc biệt là phổ biến với hàm răng nanh sắc), sau khi mất răng nha khoa niềng răng có thể gây loét aphthous do gây chấn thương màng nhầy.
Các yếu tố khác, như là chất kích thích hóa học hoặc thương tích nhiệt cũng có thể dẫn đến sự phát triển của vết loét. Sử dụng kem đánh răng mà không có natri lauryl sulfat (SLS) có thể làm giảm tần số loét aphthous, nhưng một số nghiên cứu đã cho thấy không có mối liên quan giữa SLS trong kem đánh răng và loét aphthous. Bệnh Celiac đã được đề xuất như một nguyên nhân gây loét aphthous; nghiên cứu nhỏ đối với bệnh nhân bị bệnh celiac (33%) đã chứng tỏ một kết luận về mối liên quan giữa bệnh và kiểm soát loét aphthous, một số bệnh nhân được hưởng lợi từ loại bỏ gluten từ chế độ ăn uống của họ.
2- Cơ chế bệnh sinh
Sinh lý bệnh của viêm loét aphthous chưa được hiểu rõ. Về mặt mô học, aphthae chứa một mononuclearinfiltrate thâm nhập với một fibrin coating, aphthae tái phát có thể thay đổi miễn dịch tế bàotrung gian tại chỗ T và B-cell phản ứng cũng đã được báo cáo là bị thay đổi ở loét apthous tái phát. Loét miệng aphthous cũng thường thấy trong bệnh Crohn. Không có dấu hiệu cho thấy loét aphtous là liên quan đến kinh nguyệt,mang thai và mãn kinh.
III- Chẩn đoán phân biệt
Một số điều kiện cần được xem xét trong việc chẩn đoán phân biệt khi đánh giá các bệnh nhân bị tái phát aphthae
Điều cơ bản là aphthae lành tính có xu hướng các vết loét nhỏ và thường xuyên hơn, tự giới hạn, tự lành khi so sánh với các bệnh nghiêm trọng hơn ví dụ như: suy giảm miễn dịch virus (HIV); bác sĩ nên cân nhắc việc thử nghiệm HIV ở những aphthae lớn và chậm chậm khỏi.
- Cần chẩn đoán phân biệt giữa loét Aphthous với herpes: Khi nhuộm Tzank, tiêu bản từ một tổn thương herpetic sẽ bao gồm các tế bào khổng lồ, các treponemal,virus, vi khuẩn và nấm. Sinh thiết đơn độc hoặc kết hợp với các nguồn khác của tổn thương hoặc thử nghiệm máu có thể hỗ trợ trong phân biệt tác nhân gây bệnh.
- Bệnh tự miễn dịch Một số bệnh tự miễn dịch có thể bắt chước viêm loét aphthous lành tính. Behçet của hội chứng là một vasculitis tự miễn dịch gây ra tái phát loét miệng và bộ phận sinh dục, uveitis (viêm màng bồ đào) và retinitis(loét sinh dục). aphthae và Behçet có thể cùng tồn tại trên một cơ thể bệnh. Hội chứng Behçet có thể chiếm khoảng 43 – 100% bệnh nhân bị tái phát loétaphthous.
- Hội chứng Reiter liên kết với vết loétmiệng, uveitis, viêm kết mạc và viêm khớp HLA B27 dương tính sau Hoa urethritis hoặc bacillary dysentery. - Bệnh Crohn, có thể kết hợp loét miệng, Lupus ban đỏ, bullous pemphigoid và pemphigusvulgaris. Trong tất cả những điều kiện này, các triệu chứng liên quan nên được xem xét để chẩn đoán phân biệt với aphthae lành tính, thường xuyên. - Apthae với ung thư vùng miệng Cần được xem xét khi thường xuyên viêm loét hoặc chậm lành, sinh thiết hoặc phẫu thuật sinh thiết có thể giúp làm rõ điều này khác biệt này.
IV- Chữa trị
Có thể dùng thuốc hoặc một số loại đồ ăn uống có tính mát.
A. Dùng thuốc
1 - Dùng thuốc bôi tại chỗ
+ KAMISTAD – Gel N: Thuốc chữa viêm nhiễm răng miệng, Kamistad – Gel N của Đức được chiết xuất từ dịch chiết hoa cúc, loại thảo dược hoạt tính kháng khuẩn, kháng viêm cao, giảm đau.
+ ORACORTIA: Thành phần Triamcinoloneacetonide. Là loại thuốc kháng viêm dạng Corticoide có tác dụng điều trị hỗ trợ làm giảm tạm thời các triệu chứng viêm nhiễm khoang miệng hay tổn thương dạng loét do chấn thương.
Chống chỉ định: Mẫn cảm với thành phần thuốc. Tổn thương do nhiễm nấm, bạch biến, herpes, khối u mới mọc, mụn trứng cá đỏ, loét hạch. Không dùng trên vùng da rộng hay lượng lớn thời gian dài. Phụ nữ có thai/cho con bú. Tác dụng phụ: Teo da, ban đỏ, rạn và làm mỏng da, rạn da đặc biệt vùng nhiều nếp gấp
+ Các loại thuốc bôi không chuyên dụng khác:
- Nitrate bạc: Bôi trực tiếp lên tổn thương, thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thương tổn trong vòng 3 - 5 ngày.
- Debacterol là phức hợp phenol: sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tương tự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảm giác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 - 5 ngày. Thuốc bán theo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lần mỗi ngày.
- Các loại kem bôi có chứa triamcinolone acetonide:Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốt nhất là sau bữa ăn chính và trước khi đi ngủ.
- Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap): Dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và lành loét nhanh chóng. Tuy nhiên, thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gây kích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.
- Gel lidocaine: Gel 2%lidocaine: Bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốc sau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.
2 - Dùng thuốc bôi tạo màng ngăn
Các vết loét trong niêm mạc miệng rất lâu lành là do thường xuyên bị chìm trong nước bọt và dịch thức ăn. Một phương pháp mới được đưa ra để chữa trị chứng loét miệng này là: dùng thuốc bôi trực tiếp lên vết loét, phối hợp 4 loại thuốc: Sunfamethoxazon, trimethoprim, Serathiopeptit, hoạt chất tạo màng ngăn.
Thuốc vào trong miệng gặp nước bọt và dịch huyết tương rỉ ra từ chỗ tổn thương tạo thành màng, màng này đủ sức chịu đựng được sự tấn công của nước bọt và dịch thức ăn từ 6 - 8 giờ, cứ 6 - 7 giờ bôi thuốc một lần sẽ tạo được màng ngăn cách vết loét với dịch khoang miệng, từ đó làm cho vết loét rất nhanh lành. Đồng thời thuốc có tác dụng chống nhiễm khuẩn, kháng viêm, ngăn chặn hiện tượng tái phát. Kết hợp uống thêm vitamin, thuốc tăng cường chức năng gan hoặc kháng sinh nếu thấy cần thiết.
Sau 6 - 7 lần bôi thuốc xuất hiện các dấu hiệu lành vết loét, sau 1 - 2 lần bôi thuốc ăn mặn không xót (do thuốc tạo màng ngăn). Tiếp tục bôi thuốc khi loét tái phát (do đặc điểm của bệnh là tái diễn từng đợt cho, nên chỉ bôi thuốc lúc có viêm loét) thấy dễn biến viêm loét nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi, bệnh khỏi theo lộ trình giảm dần đi và thưa dần ra.
3 - Các phương pháp điều trị theo toa
Chế phẩm corticosteroid có chứa hydrocortisone acetonide hemisuccinate hoặc triamcinolone để kiểm soát các triệu chứng có hiệu quả trong điều trị loét nặng.
Việc áp dụng các nitrat bạc để đốt cháy những vết đau; có tác dụng giảm đau nhất thời nhưng không giảm thời gian lành vết loét, ở trẻ em nó có thể gây ra sự đổi màu răng nếu răng vẫn còn đang phát triển. Việc sử dụng tetracycline là gây tranh cãi, cũng như là điều trị với Levamisole, colchicine, gamma-globulin, Dapsone, thay thế estrogen và các thuốc ức chế monoamine oxidase.
Một thuốc mới hơn được gọi là Debacterol, một loại sulfuric acid / phenolics là giải pháp được sử dụng để đốt cháy vết đau, cho thấy có tác dụng giảm đau và giảm thời gian chữa bệnh. Tuy nhiên, mãi tới gần đây mới chấp thuận bởi FDA.
Bệnh nặng đôi khi được điều trị bằng corticosteroid như prednisone và thuốc chống virus như acyclovir.
B. Dùng đồ ăn uống có tính mát
– Sử dụng bột sắn dây ngày 2 lần giúp giảm đau rát, theo Đông Y, bột sắn dây có vị ngọt, mát, tính bình, đi vào tỳ, vị, phế, bàng quang có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm dịu mát cơ thể nhanh chóng. Đối với những người bị nhiệt miệng thì nên dùng 10 – 15 g/ngày, tùy theo thể trạng và tuổi của từng người, có thể giảm hoặc tăng thêm liều dùng, pha loảng với nước đun sôi để nguội, không cho đường là tốt nhất, với trẻ nhỏ cho uống chín tốt hơn uống sống
– Nước cốt dừa chữa nhiệt miệng: Nghiền nát vài mảnh cùi dừa, sau đó ép lấy nước và dùng để súc miệng khoảng 3 đến 4 lần mỗi ngày.
– Đun sôi một cốc nước cùng với 1 thìa hạt rau mùi. Gạn lấy nước dùng súc miệng. Mỗi ngày dùng để súc miệng từ 3 đến 4 lần.
– Dùng lá húng chó để trị nhiệt miệng bằng cách nhai 5 đến 6 lá rau húng nhấp vài ngụm nước lạnh. Mỗi ngày 5-6 lần.
– Ăn cà chua sống là một cách chữa nhiệt miệng một cách hiệu quả. Hoặc bạn cũng có thể ngậm nước ép cà chua mỗi ngày khoảng 3 – 4 lần sẽ nhanh chóng chữa được nhiệt miệng.
– Khế chua tươi 2 – 3 quả, giã nát, đổ ngập nước và đun sôi một lúc, chờ khi thuốc nguội thì ngậm và nuốt dần, ngậm nhiều lần trong ngày. Khế chua giúp sinh tân dịch nhiều hơn, thanh nhiệt cũng tốt hơn khế ngọt.
– Dùng cỏ mực (nhọ nồi) rửa sạch, chỉ lấy lá, giã nát, ép lấy nước cốt, hòa với ít mật ong. Dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 – 3 lần.
– Dùng lá rau ngót rửa sạch, chỉ lấy lá, giã nát, ép lấy nước cốt, hòa với ít mật ong. Dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 đến 3 lần. Cách chữa nhiệt miệng này có tác dụng giống như cỏ nhọ nồi (cỏ mực).
– Củ cải đem giã củ cải sống khoảng 300g rồi vắt lấy nước hòa thêm một ít nước lọc, súc miệng ngày 3 lần, dùng 2 ngày là khỏi.
– Uống nước chè tươi hàng ngày có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, đồng thời có tác dụng bảo vệ răng miệng rất hiệu quả do bản chất chống oxy hóa. Có thể dùng ống hút khi uống nước để giảm đau. Tuy nhiên, chúng ta không nên lạm dụng, uống quá nhiều hoặc đun quá đặc sẽ gây ra tác dụng ngược đối với những người dễ bị nhạy cảm. Theo tiến sĩ Zuo Feng Zhang, nhà nghiên cứu dịch tễ học của Đại học Maryland, mỗi người nên dùng 2-3 cốc trà xanh mỗi ngày sẽ rất có lợi cho sức khỏe, nhiều nghiên cứu khác thì cho rằng dùng hạn chế tối đa 10 tách trà xanh/ ngày tốt cho sức khỏe nếu bạn không bị trà xanh gây mất ngủ.
– Trong nước cam/chanh có chứa hàm lượng vitamin C tự nhiên cao, rất có lợi trong việc thúc đẩy hệ thống miễn dịch, chống oxy hóa, kháng viêm. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong nước cam có chứa chất folate, loại vitamin B đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành của các tế bào mới, thúc đẩy quá trình làm lành các vết thương, vết lở loét. Với đặc tính chống viêm có hiệu quả, do đó sẽ rất có ích cho những người bị nhiệt miệng.
– Theo các y thư cổ, nhân trần vị hơi đắng, tính hơi hàn, có công dụng thanh nhiệt, lợi thấp, lợi mật, được dùng để chữa các chứng hoàng đản, tiểu tiện bất lợi, viêm loét da do phong thấp. Nếu mắc chứng da viêm nề và ngứa nhiều, dùng nhân trần 30 g, lá sen 15 g sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 g với nước lọc có pha chút mật ong.
– Uống nước rau má, râu ngô hàng ngày thay nước lọc, uống đủ 1,5 - 2 lít /ngày. Rau má có khả năng làm lành vết thương và giảm stress, do đó mà nó có tác dụng tuyệt vời trong việc chữa trị nhiệt miệng. Theo nghiên cứu của các chuyên gia về sức khỏe, trong cây rau má có chứa hóa chất Triterpenoids, có tác dụng làm lành vết thương, vết lở loét rất nhanh, tăng cường chất chống oxy hóa tại vị trí vết thương, vết lở loét. Nếu bị nhiệt miệng thì cách tốt nhất là chúng ta giã nhuyễn, vắt lấy nước uống mà không cần phải tuân thủ nguyên tắc về số lượng hay thời gian sử dụng.
– Rau diếp cá có vị cay, hơi lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng. Gần đây Y học hiện đại đã nghiên cứu và nhận thấy trong rau diếp cá có tính kháng khuẩn, tiêu diệt ký sinh trùng, do đó mà rau diếp có có tác dụng rất tuyệt vời trong việc điều trị nhiệt miệng. Chúng ta có thể giã nhuyễn, vắt lấy nước uống hoặc xay làm sinh tố, dùng cả nước để uống và ăn cả bả rau diếp cá sẽ rất tốt cho việc điều trị và làm mát cơ thể.
– Theo y học cổ truyền, nghệ vàng có vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu và giảm đau, trị mụt nhọt, sưng do viêm… cùng với mật ong có tính sát khuẩn cao sẽ giúp các vùng bị nhiệt bị "đánh bại" nhanh chóng.
Ngoài những cách chữa nhiệt miệng trên ra, thì trong mọi trường hợp nhiệt miệng, yếu tố được đặt lên hàng đầu là cần tăng cường vệ sinh răng miệng để tránh bội nhiễm, hạn chế diễn biến xấu. Người bệnh được khuyên sử dụng những loại kem đánh răng có tinh chất chiết xuất từ thiên nhiên như trà xanh, bạc hà để tránh gây ảnh hưởng đến niêm mạc miệng, đồng thời làm "mát" hơn cho miệng từ bên trong.
VII- Phòng ngừa
Nha khoa và các biện pháp phòng ngừa
- Thường xuyên sử dụng nước súc miệng không cồn có thể giúp ngăn ngừa hoặc giảm bớt tần suất của các vết loét. Trong thực tế, nghiên cứu đề nghị chính thức nước súc miệng để tạm thời có thể giúp giảm đau.
- Trong một số trường hợp, thay đổi kem đánh răng có thể ngăn ngừa viêm loét aphthous, trong các nghiên cứu xem xét vai trò của natri sulfat dodecyl (natri lauryl sulfat hay SLS), một chất tẩy rửa có ở hầu hết các loại thuốc đánh răng. Sử dụng kem đánh răng không có hợp chất này, ở một số nghiên cứu cho thấy làm giảm số lượng, kích thước và tái phát loét.
- Niềng răng Nha khoa là một chấn thương vật lý phổ biến có thể dẫn đến viêm loét aphthous, khung nha khoa được che phủ bằng sáp có thể làm giảm hiện tượng mài mòn niêm mạc này. Phòng tránh các loại chấn thương vật lý và hóa học sẽ ngăn chặn một số loét, nhưng thường là chấn thương do tai nạn, công tác phòng chống kiểu này thường không được thực hiện.
Liệu pháp dinh dưỡng
Thiếu hụt Kẽm (Zn) đã được phát hiện ở những người bị tái phát viêm loét aphthous. Các nghiên cứu nhỏ nghiên cứu vai trò của bổ sung kẽm hầu hết là có kết quả tích cực đặc biệt là đối với những người bị thiếu hụt, mặc dù một số nghiên cứu đã tìm thấy việc bổ sung kẽm không có tác dụng điều trị.
NoName.2407 | |
16/10/2017 16:38:26 |
Theo như những" nghiên cứu thông thái" trên, tôi thấy bệnh loét miengj ( Áp-tơ) này có nguyên nhân và chữa trị "cực kỳ phức tạp". Tôi là người hay mắc bệnh này từ hồi nhỏ mà má tôi gọi là đẹn trăng vì thường xuất hiện vào ngày rằm, trăng sáng. Như vậy bệnh có chu kỳ là 15 ngày. Bệnh khó chịu cho ăn uống và có thể làm sưng hạch ở họng. Tuy nhiên, tôi đã chữa trị và đã hết (trong giai đoạn bị bệnh, không ngăn tái lại) một cách cực kì đơn giản, không thuốc men gì cả.Tôi quan niệm (không biết đúng hay sai) đẹn là một hình thức bệnh nấm miệng, nó xuất hiện khi môi trường ( độ pH) trong nước bọt thay đổi ( do sinh lí cơ thể tạo ra), khi độ pH ngã sang axit thì xuất hiện bệnh ( hay tạo điều kiện cho nấm phát triển). Thế là nấm kí sinh và làm loét niêm mạc. Bây giờ làm cách nào " bứng" cả gốc rễ nó thì nó "chết" ( thế thôi!). Bạn dùng bông gòn (cỡ bằng ngón tay cái), ấn thật mạnh vào vết loét và chùi sạch mảng trắng, chùi cho đến khi "đổ máu" ra ( thế mới sạch!). Mỗi lần làm đau muốn "té đái". Mỗi ngày làm chừng 2 lần ( sáng sớm và tối), tối đa ba lần. Ngay lần chùi đầu tiên bạn sẽ thấy vết loét giảm đau và nhỏ lại liền sau vài tiếng đồng hồ. Chữa trị như thế khoảng 3 ngày là lành hẳn!. Để ngừa nhiễm trùng, bạn nên mua một lọ nước muối sút miệng sau mỗi lần chùi. Thế thôi! Làm đi sẽ thấy!
Thành | |
20/05/2018 09:43:12 |
Nhiệt miệng là tên gọi theo dân gian, thực chất bệnh là viêm loét niêm mạc miệng do nhiều nguyên nhân khác nhau, thường là loét áp–tơ (aphthous ulcer). Biểu hiện của bệnh là: trong niêm mạc miệng xuất hiện một hoặc nhiều mụn nhỏ 1–2 mm, hơi đau, có ít nước, vài ngày sau đồng loạt vỡ ra tạo thành vết loét. Vết loét to dần, có khi tới 10 mm làm ảnh hưởng nhiều đến ăn uống sinh hoạt và giao tiếp. Nếu không có biến chứng vết loét tự lành sau 10–15 ngày rồi lại tái diễn đợt khác tương tự.
Vết loét trong miệng thường xuyên bị ướt, huyết tương rỉ ra không đông khô, không tạo được màng che phủ cho nên lâu lành. Vì vậy, cách chữa hiệu quả nhất là: bôi thuốc tạo màng che phủ vết loét, tương tự như băng bó vết thương ở ngoài da. Ngoài tác dụng tạo màng làm nhanh lành vết loét, thuốc còn có tác dụng dung giải phản ứng tự miễn-ngăn chặn tái phát nên khỏi nhiệt miệng dần dần, đợt tái phát sau nhẹ hơn đợt trước.
Thực tế đã kiểm chứng: Chỉ sau 6–7 lần bôi thuốc là khởi lành vết loét, đặc biệt sau 1–2 lần bôi thuốc là ăn mặn đã không xót, trẻ em bú được ngay (do thuốc tạo màng ngăn phủ lên vết loét), lành vết loét sau 4-5 ngày bôi thuốc. . Kết hợp uống vitamin , điều chỉnh chế độ ăn uống – sinh hoạt – lao động …và bôi thuốc khi bệnh tái phát, thấy biểu hiện nhiệt miệng nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi sau 4–5 đợt chữa tái phát.
Chú ý:
- Các lần bị nhiệt miệng sau, không nên bôi thuốc ngay khi mới thấy vết loét mà để 2–3 ngày sau, khi đó vết loét rõ hẳn mới bôi thuốc thì tác dụng ngừa tái phát tốt hơn, còn tác dụng nhanh lành vết loét không thay đổi.
- Mỗi lần bôi thuốc không cần nhiều, chỉ bôi một lượng thuốc vừa đủ kín vết loét, nếu nước bọt ứa ra thì nhẹ nhàng nhổ nước bọt và thuốc dư ra, sau 30 phút mới ăn uống.
- Không nên bôi thuốc thật nhiều vào rồi đi ngủ, vì khi ngủ không nuốt nước bọt màng tạo ra rất dày, dễ bong làm cho thuốc không có tác dụng. Do vậy nếu bôi thuốc vào buổi tối thì sau khi bôi được 2 giờ mới đi ngủ.
Vết loét trong miệng thường xuyên bị ướt, huyết tương rỉ ra không đông khô, không tạo được màng che phủ cho nên lâu lành. Vì vậy, cách chữa hiệu quả nhất là: bôi thuốc tạo màng che phủ vết loét, tương tự như băng bó vết thương ở ngoài da. Ngoài tác dụng tạo màng làm nhanh lành vết loét, thuốc còn có tác dụng dung giải phản ứng tự miễn-ngăn chặn tái phát nên khỏi nhiệt miệng dần dần, đợt tái phát sau nhẹ hơn đợt trước.
Thực tế đã kiểm chứng: Chỉ sau 6–7 lần bôi thuốc là khởi lành vết loét, đặc biệt sau 1–2 lần bôi thuốc là ăn mặn đã không xót, trẻ em bú được ngay (do thuốc tạo màng ngăn phủ lên vết loét), lành vết loét sau 4-5 ngày bôi thuốc. . Kết hợp uống vitamin , điều chỉnh chế độ ăn uống – sinh hoạt – lao động …và bôi thuốc khi bệnh tái phát, thấy biểu hiện nhiệt miệng nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi sau 4–5 đợt chữa tái phát.
Chú ý:
- Các lần bị nhiệt miệng sau, không nên bôi thuốc ngay khi mới thấy vết loét mà để 2–3 ngày sau, khi đó vết loét rõ hẳn mới bôi thuốc thì tác dụng ngừa tái phát tốt hơn, còn tác dụng nhanh lành vết loét không thay đổi.
- Mỗi lần bôi thuốc không cần nhiều, chỉ bôi một lượng thuốc vừa đủ kín vết loét, nếu nước bọt ứa ra thì nhẹ nhàng nhổ nước bọt và thuốc dư ra, sau 30 phút mới ăn uống.
- Không nên bôi thuốc thật nhiều vào rồi đi ngủ, vì khi ngủ không nuốt nước bọt màng tạo ra rất dày, dễ bong làm cho thuốc không có tác dụng. Do vậy nếu bôi thuốc vào buổi tối thì sau khi bôi được 2 giờ mới đi ngủ.
Thảnh | |
05/06/2018 09:10:57 |
Nhiệt miệng là tên gọi theo dân gian, thực chất bệnh là viêm loét niêm mạc miệng do nhiều nguyên nhân khác nhau, thường là loét áp–tơ (aphthous ulcer). Biểu hiện của bệnh là: trong niêm mạc miệng xuất hiện một hoặc nhiều mụn nhỏ 1–2 mm, hơi đau, có ít nước, vài ngày sau đồng loạt vỡ ra tạo thành vết loét. Vết loét to dần, có khi tới 10 mm làm ảnh hưởng nhiều đến ăn uống sinh hoạt và giao tiếp. Nếu không có biến chứng vết loét tự lành sau 10–15 ngày rồi lại tái diễn đợt khác tương tự.
Vết loét trong miệng thường xuyên bị ướt, huyết tương rỉ ra không đông khô, không tạo được màng che phủ cho nên lâu lành. Vì vậy, cách chữa hiệu quả nhất là: bôi thuốc tạo màng che phủ vết loét, tương tự như băng bó vết thương ở ngoài da. Ngoài tác dụng tạo màng làm nhanh lành vết loét, thuốc còn có tác dụng dung giải phản ứng tự miễn-ngăn chặn tái phát nên khỏi nhiệt miệng dần dần, đợt tái phát sau nhẹ hơn đợt trước.
Thực tế đã kiểm chứng: Chỉ sau 6–7 lần bôi thuốc là khởi lành vết loét, đặc biệt sau 1–2 lần bôi thuốc là ăn mặn đã không xót, trẻ em bú được ngay (do thuốc tạo màng ngăn phủ lên vết loét), lành vết loét sau 4-5 ngày bôi thuốc. . Kết hợp uống vitamin , điều chỉnh chế độ ăn uống – sinh hoạt – lao động …và bôi thuốc khi bệnh tái phát, thấy biểu hiện nhiệt miệng nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi sau 4–5 đợt chữa tái phát.
Chú ý:
- Các lần bị nhiệt miệng sau, không nên bôi thuốc ngay khi mới thấy vết loét mà để 2–3 ngày sau, khi đó vết loét rõ hẳn mới bôi thuốc thì tác dụng ngừa tái phát tốt hơn, còn tác dụng nhanh lành vết loét không thay đổi.
- Mỗi lần bôi thuốc không cần nhiều, chỉ bôi một lượng thuốc vừa đủ kín vết loét, nếu nước bọt ứa ra thì nhẹ nhàng nhổ nước bọt và thuốc dư ra, sau 30 phút mới ăn uống.
- Không nên bôi thuốc thật nhiều vào rồi đi ngủ, vì khi ngủ không nuốt nước bọt màng tạo ra rất dày, dễ bong làm cho thuốc không có tác dụng. Do vậy nếu bôi thuốc vào buổi tối thì sau khi bôi được 2 giờ mới đi ngủ.
Xem thêm: http://nhietmieng.com/ . Bệnh nhiệt miệng . Nhiệt miệng
Bác sĩ: Đỗ Hữu Thảnh
Phản hồi xin được gửi về: ĐT 02283 926 483 – 01674 198 250 Email: thanh.do52@gmail.com
Vết loét trong miệng thường xuyên bị ướt, huyết tương rỉ ra không đông khô, không tạo được màng che phủ cho nên lâu lành. Vì vậy, cách chữa hiệu quả nhất là: bôi thuốc tạo màng che phủ vết loét, tương tự như băng bó vết thương ở ngoài da. Ngoài tác dụng tạo màng làm nhanh lành vết loét, thuốc còn có tác dụng dung giải phản ứng tự miễn-ngăn chặn tái phát nên khỏi nhiệt miệng dần dần, đợt tái phát sau nhẹ hơn đợt trước.
Thực tế đã kiểm chứng: Chỉ sau 6–7 lần bôi thuốc là khởi lành vết loét, đặc biệt sau 1–2 lần bôi thuốc là ăn mặn đã không xót, trẻ em bú được ngay (do thuốc tạo màng ngăn phủ lên vết loét), lành vết loét sau 4-5 ngày bôi thuốc. . Kết hợp uống vitamin , điều chỉnh chế độ ăn uống – sinh hoạt – lao động …và bôi thuốc khi bệnh tái phát, thấy biểu hiện nhiệt miệng nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi sau 4–5 đợt chữa tái phát.
Chú ý:
- Các lần bị nhiệt miệng sau, không nên bôi thuốc ngay khi mới thấy vết loét mà để 2–3 ngày sau, khi đó vết loét rõ hẳn mới bôi thuốc thì tác dụng ngừa tái phát tốt hơn, còn tác dụng nhanh lành vết loét không thay đổi.
- Mỗi lần bôi thuốc không cần nhiều, chỉ bôi một lượng thuốc vừa đủ kín vết loét, nếu nước bọt ứa ra thì nhẹ nhàng nhổ nước bọt và thuốc dư ra, sau 30 phút mới ăn uống.
- Không nên bôi thuốc thật nhiều vào rồi đi ngủ, vì khi ngủ không nuốt nước bọt màng tạo ra rất dày, dễ bong làm cho thuốc không có tác dụng. Do vậy nếu bôi thuốc vào buổi tối thì sau khi bôi được 2 giờ mới đi ngủ.
Xem thêm: http://nhietmieng.com/ . Bệnh nhiệt miệng . Nhiệt miệng
Bác sĩ: Đỗ Hữu Thảnh
Phản hồi xin được gửi về: ĐT 02283 926 483 – 01674 198 250 Email: thanh.do52@gmail.com
Tags: nhiệt miệng là gì,làm sao để chữa nhiệt miệng,nhiệt miệng,viêm loét niêm mạc miệng,vì sao bị nhiệt miệng,nguyên nhân của nhiệt miệng,cách chữa nhiệt miệng,bị nhiệt miệng phải làm sao,Loét aphthous,loét áp - tơ,Loét aphthous là gì,loét áp - tơ là gì,y tế sức khỏe
Câu hỏi mới nhất:
- Chỉ mình cách lấy point với ạ?
- Làm cách nào để khôi phục ảnh cũ trong phần chat lazi?
- Ai chỉ cho mình cách học, phương pháp học thuộc nhanh và hiệu quả cho môn Văn, KHTN, Lịch sử và Địa Lý được không ạ?
- Các phương pháp học tiếng Anh hiệu quả nhất?
- Que này là gì?
- Tại sao con gái lại phải đeo bông tai (vàng)?
- Tìm từ nói về sự gắn kết nghĩa tình vợ chồng?
- Có chí làm quan, có gan làm giàu nghĩa là gì vậy?
- Có phải do phím bị liệt không?
- Cách viết ngày tháng trong tiếng Anh: ngày trong tháng, ngày trong tuần, tháng trong năm
- Xem tất cả câu hỏi >>
Câu hỏi khác:
- Sao Bắc Đẩu
- Mình muốn xin định mức tiêu hao nguyên vật liệu do Nhà nước ban hành cho tất cả các ngành. ...
- Bánh tráng phơi sương là gì?
- Con sâu làm rầu nồi canh nghĩa là gì?
- Nợ như chúa Chổm là gì?
- Bệnh thành tích là gì?
- Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông COC là gì?
- Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống là gì?
- Xôi thịt là gì? Văn hóa xôi thịt?
- Ngày Tam nương là ngày gì?
Bạn có câu hỏi cần giải đáp, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu hỏi
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!