Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp và những biến đổi trong nền kinh tế Việt Nam
1- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp
– Sau chiến tranh TG1, Pháp tuy thắng trận, nhưng phải chịu nhiều tổn thất về kinh tế-tài chính. Chiến tranh phá huỷ nhiều nhà máy, đường sá, cầu cống, làng mạc của Pháp; nhiều ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ; thương mại giảm sút; nước Pháp trở thành con nợ lớn, nhất là của Mĩ, năm 1920 nợ 300 tỉ Phơ-răng. Chiến tranh tiêu huỷ hang triệu Phơ-răng đầu tư của Pháp ở nước ngoài, điển hình cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã làm mất thị trường đầu tư lớn nhất của Pháp tại châu Âu. Các vấn đề lạm phát, tăng giá và đời sống khó khăn của các tầng lớp lao động đã làm trỗi dậy các phong trào đấu tranh chống chính phủ.
– Trong hoàn cảnh trên, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, chính phủ Pháp một mặt ra sức khôi phục kinh tế trong nước, một mặt tăng cường đầu tư, khai thác thuộc địa, trước hết và chủ yếu tại Đông Dương và châu Phi.
– Về thời gian, đợt khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chính thức được triển khai từ sau Đại chiến TG1 và kéo dài đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế TG 1929-1933, tức là trong khoảng 10 năm.
– Tốc độ và quy mô đầu tư của thực dân Pháp trong đợt khai thác thuộc địa lần 2 ồ ạt và rộng hơn nhiều lần so với đợt khai thác lần 1. Số vốn đầu tư tăng nhanh qua các năm; riêng năm 1920 đầu tư đạt 225 tỉ Phơ-răng. Nếu giai đoạn 1888-1918 Pháp mới đầu tư khoảng 1 tỉ Phơ-răng vào toàn Đông Dương(chủ yếu ở VN), thì chỉ trong giai đoạn 1924-1929 số vốn đầu tư đã lên đến 4.000 triệu Phơ-răng. Từ 1931 dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế TG, tư bản Pháp vẫn tiếp tục đầu tư vốn vào VN.
– Về hướng(lĩnh vực) đầu tư trong đợt KTTĐL2 cũng khác với KTTĐL1. Nếu đợt KTTĐL1 tư bản Pháp chủ yếu đầu tư vào khai mỏ và giao thông vận tải; thì KTTĐL2 tư bản Pháp đổ xô vào kinh doanh nông nghiệp, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh khai thác khoáng sản.
=> Chính sách tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa trên đây của thực dân Pháp đã làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu và trình độ phát triển của các ngành kinh tế VN sau CTTG thứ nhất.
2- Những biến đổi trong nền kinh tế Việt Nam
– Nông nghiệp: là ngành được TDF chú trọng đầu tư khai thác hơn tất cả các ngành khác trong đợt KTTĐL2. Nếu 1924 thực dân Pháp đầu tư 52 triệu Phơ-răng thì đến 1927 đã đầu tư 400 triệu Phơ-răng, ra sức cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Đến 1930, tổng số RĐ TDF chiếm đoạt lên đến 1,2 triệu ha.
Hầu hết đồn điền đều chủ yếu trồng lúa và 1 số loại cây công nghiệp như chè, cà phê, cao su… Tại các đồn điền trồng lúa, phương thức canh tác và bóc lột của địa chủ Pháp-Việt vẫn chủ yếu theo kiểu phong kiến(cho mướn RĐ-thu tô thuế), các biện pháp kỹ thuật ít được áp dụng, năng suất lúa rất thấp so với các nước(11-12 tạ/năm; Xiêm 18 tạ/năm; Malaixia 21 tạ/năm)
Do nhu cầu thị trường TG sau chiến tranh, nhất là Pháp, giá cao su tăng lên nhanh chóng, do đó các nhà tư bản Pháp đổ xô vào kiếm lời trong kinh doanh cao su. Chỉ tính 2 năm 1927-1928, các đồn điền cao su được đầu tư 600 triệu Phơ-răng. Diện tích đồn điền cao su mở rộng không ngừng: năm 1919, diện tích là 15.850ha; 1925 là 18.000ha; 1930 là 78.620ha. Các hoạt động kinh doanh cao su tập trung chủ yếu quanh 3 công ti lớn là: Công ti đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt đới, Công ty Michelin. Sản lượng mủ cao su ngày càng tăng: năm 1919 là 3.500 tấn; 1924 là 6.796 tấn; năm 1929, riêng số cao su xuất khẩu là 10.000 tấn.
Bên cạnh đó, nhiều đồn điền chè, cà phê cũng được xây dựng ngày 1 nhiều và mở rộng diện tích, nhất là thời gian sau 1924. Đến 1930, TDF có khoảng 10.000ha cà phê, 3.000ha chè, ngoài ra còn có hang nghìn hecta dùng trồng mía, bong, hồ tiêu…
Tuy nhiên, tốc độ phát triển trung bình của nông nghiệp VN thời này vẫn thấp, khoảng 1,4%/năm; riêng Nam Kỳ, có tốc độ phát triển cao hơn, khoảng 8,5%/năm trong giai đoạn những năm 20. Chỉ tính từ 1926-1930, các tỉnh Nam Kỳ đã thu hoạch được 3.360 nghìn tấn lúa, trong đó một phần được xuất khẩu ra thế giới. Những năm 20, lúa là mặt hang xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 60-70% giá trị(năm 1880 xuất 240.000 tấn gạo; 1928 xuất 1.700.000 tấn gạo), VN là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, sau Malaixia.
– Công nghiệp: cũng được tăng cường vốn đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất. Tư bản Pháp tiếp tục gia tăng tốc độ đầu tư khai mỏ, nhất là mỏ than(năm 1911 diện tích mỏ là 6 vạn ha; năm 1930 là 43 vạn ha, gấp 7 lần). Những năm 20, nhiều công ti khai mỏ mới được thành lập như: Công ti than Hạ Long, Đồng Đăng, Tuyên Quang, Đông Triều, Công ti than và mỏ kim khí Đông Dương… Sản lượng than khai thác tăng qua các năm: năm 1919 đạt 665.000 tấn; năm 1929 đạt 1.972.000 tấn, gấp 3 lần.
Bên cạnh than, các mỏ thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác: so với trước chiến tranh TG1, sản lượng thiếc tặng gấp 3 lần; kẽm 1,5 lần; vonfram 1,2 lần. Riêng năm 1928, tư bản Pháp đã khai thác được ở VN gần 2 triệu tấn than, 21.000 tấn kẽm, 250 tấn chì, 105 tấn vonfram, 20 tấn phốt phát, trên 150 nghìn tấn muối.
Tổng giá trị các loại quặng khoáng sản đã khai thác từ 1923 – 1929 tăng gấp 2 lần, đạt 18,6 triệu đồng(tương đương trên 200 triệu Phơ-răng). Số quặng khai thác được chủ yếu để xuất khẩu(năm 1929 Pháp xuất khẩu 1,3 triệu tấn than, chiếm 65% sản lượng khai thác, tăng gấp 2 lần 1913).
Để phục vụ ngành khai khoáng, một số cơ sở chế biến quặng, đúc kẽm, thiếc… đã được thành lập tại Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng… để sơ chế khoáng sản để xuất khẩu hoặc phục vụ công nghiệp chính quốc.
Công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thời kỳ này cũng khá phát đạt, như: xi măng Hải Phòng; các nhà máy tơ-sợi-dệt ở Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Sài Gòn; các nhà máy xay xát gạo, chế biến rượu, làm đường ở Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Chợ Lớn… đều được nâng cấp và mở rộng quy mô sản xuất.
Tuy nhiên, một ngành công nghiệp nặng(luyện kim, cơ khí)với đầy đủ tính chất của nó, chưa thật sự ra đời. Công nghiệp VN vẫn là 1 nền công nghiệp dịch vụ và phục vụ(chủ yếu sản xuất hang tiêu dùng và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chính quốc)nên chịu lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp và thị trường nước ngoài.
Giao thông vận tải tiếp tục được tăng cường đầu tư vốn và các trang thiết bị kỹ thuật để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa. Chính quyền thực dân cho xây dựng một số tuyến đường sắt xuyên Đông Dương như: Vinh-Đông Hà, Đồng Đăng-Na Sầm. Đến 1931, Pháp xây dựng được 2389 km đường sắt trên lãnh thổ VN. Đường bộ, bao gồm đường liên tỉnh và nội tỉnh, cũng được đẩy nhanh tiến độ xây dựng, cho đến 1930 đạt gần 15.000km, trong đó đường nhựa thì mới chỉ đạt vài nghìn km. Các cảng Hải Phòng, Sài Gòn được nạo vét và củng cố nhà kho, bến bãi; một số cảng mới như Hòn Gai, Bến Thuỷ… được xúc tiến xây dựng. Mạng lưới giao thông thuỷ trên các sông Hồng, Cửu Long tiếp tục được khai thác. Nhìn chung, những năm 30-40 của thế kỷ XX, Đông Dương là một trong những nơi có hệ thống giao thông tốt nhất ở Đông Nam Á.
– Thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, có bước tiến rõ rệt so với trước. Sau các đạo luật thuế quan vào các năm 1887, 1892, 1910, 1913, năm 1928 chính quyền thực dân ra thêm một nghị định mới nhằm đánh thuế nặng vào các hàng của nước ngoài, nhất là hàng Trung Quốc và Nhật Bản, qua đó thực hiện độc quyền thương mại, giúp hang hoá Pháp tràn ngập thị trường VN(trước thế chiến I hàng Pháp chiếm 37%, những năm 1929-1930 hàng Pháp chiếm đến 63% tổng số hang nhập khẩu). Cán cân thương mại thời kỳ này khá ổn định, thậm chí có xu hướng xuất siêu(trong giai đoạn 1928-1932 chỉ có 1 năm nhập siêu còn lại 4 năm xuất siêu, riêng 1928 giá trị xuất siêu đạt trên 50 triệu đồng). Tổng giá trị hang hoá xuất nhập khẩu tăng nhanh(năm 1920 giá trị xuất đạt 318 triệu, năm 1928 xuất đạt 550 triệu đồng). VN được tăng cường mở rộng quan hệ buôn bán với các nước Anh, Đức, Mĩ, Italia và một số nước trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á như Thái Lan, Trung Quốc, Xinhgapo, Hồng Kông. Tuy nhiên bạn hang chính của VN vẫn là Pháp(giai đoạn 1911-1920 hàng Pháp và các thuộc địa của Pháp chiếm 29,6%; giai đoạn 1921-1930 chiếm 43,2%). Nhìn chung trong 1 giai đoạn khá dài, VN và Đông Dương đóng vai trò “người điều chỉnh” thương mại chính quốc. Hàng hoá VN bán ra ngoài chủ yếu gồm gạo, khoáng sản, chè, cao su, cà phê, hạt tiêu(năm 1932, riêng giá trị gạo chiếm trên 60% tổng giá trị xuất khẩu của VN). Hàng hoá Pháp sang VN gồm hàng tiêu dùng và phục vụ sinh hoạt như: vải, bong sợi, giày dép, rượu, thuốc lá, ôtô; các thiết bị máy móc phục vụ phát triển công nghiệp hầu như không được nhập vào(ví dụ năm 1929, riêng giá trị rượu nhập vào VN là 63 triệu Phơ-răng, trong khi đó giá trị máy nông nghiệp nhập chỉ là 2,4 triệu).
Nội thương cũng phát triển hơn so với trước; quan hệ giữa các tỉnh, các miền của VN cũng được đẩy mạnh. Người Pháp vẫn độc quyền mua-bán về rượu, muối và thuốc phiện. Nhìn chung các hoạt động mua bán lớn của VN đều nằm trong tay người Pháp và Hoa Kiều.
– Ngân hang Đông Dương nắm vai trò tổ chức và chi phối các hoạt động kinh tế-tài chính ở VN. Ngoài việc độc quyền phát hành giấy bạc và cho vay lãi, ngân hang Đông Dương còn trực tiếp quản lí và chỉ đạo hoạt động của các chi nhánh ở các ngành, các tỉnh. Giai đoạn 1925-1930 ngân hang Đông Dương phát triển thêm 19 Nông phố Ngân hang ở khắp các tỉnh Bắc, Trung, Nam, qua đó phát triển việc cho vay lãi nặng và can thiệp sâu vào đời sống nông thôn VN.
Đánh giá cuộc khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp ở VN không chỉ dừng lại ở góc độ tăng cường đầu tư vốn và mở rộng quy mô khai thác, mà còn phải đánh giá ở góc độ yếu tố kỹ thuật và nhân tố con người. Tuy nhiên, cuộc khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chỉ là sự mở rộng, nhân lên của tình trạng sản xuất lạc hậu trong các cơ sở kinh tế; số máy móc và tiến bộ kĩ thuật được áp dụng cực kỳ hạn chế và ít ỏi trong sản xuất.
Do đó, đặc điểm nổi bật của toàn bộ cơ cấu kinh tế VN thời thuộc địa là sự phát triển mất cân đối: nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ, bên cạnh nền công nghiệp mỏng manh, yếu ớt; trong công nghiệp, ngành khai mỏ chiếm phần lớn, các ngành khác như hoá chất, luyện kim, cơ khí, năng lượng… thì hầu như không phát triển.
Tính chất mất cân đối, lệch lạc còn thể hiện qua quan hệ giữa các vùng, miền trong cả nước. Miền Bắc và miền Nam, kinh tế còn ít nhiều phát triển; riêng miền Trung, chỉ trừ một vài chuyển biến có tính chất cục bộ ở Vinh-Bến Thuỷ, Quảng Nam-Đà Nẵng…, còn lại các nơi khác hầu như vẫn nguyên trạng trong nghèo nàn, lạc hậu; các khu vực miền núi hầu như không có chuyển biến gì, người dân vẫn chủ yếu du canh du cư, sống phụ thuộc chủ yếu vào việc tận dụng các sản vật của thiên nhiên.