Một nhà phát minh người Mỹ tên là Charles Goodyear đã tạo ra quá trình lưu hóa (cao su) năm 1839, một phương pháp làm tăng độ bền của cao su. Công thức của Goodyear đã trở thành cơ sở của sản xuất săm lốp cao su lưu hoá và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay. Sau sự phát triển của hình thức lưu hóa, nhu cầu đối với các sản phẩm cao su trở nên ngày một lớn hơn. Một người Scotland tên là Robert William Thomson đã phát minh ra bánh xe khí nén hay không khí đầy đầu tiên vào năm 1845 để sử dụng trên xe ngựa kéo. Tuy nhiên, thiết kế của Thomson gặp nhiều vấn đề chức năng và thiết kế.
Một người Scotland khác, John Boyd Dunlop được công nhận là cha đẻ của lốp xe hiện đại. Năm 1887, Dunlop phát minh ra lốp xe đầu tiên của loại hình này cho chiếc xe ba bánh của con trai mình. Ông nhận được bằng sáng chế cho phát minh này vào năm 1888. Đặc điểm của chiếc lốp này là có một ống phun nước bằng da thuộc như một cái săm sau này và mặt lăn bằng cao su. Ngay sau đó, ống cao su bên trong đã được phát minh. Dunlop đã hợp tác với một người đàn ông tên là William Harvey du Cros để sản xuất hàng loạt và sau đó thành lập Công ty Cao su Dunlop.
Năm 1946, ngành công nghiệp lốp xe đã có một bước đột phá khi Michelin, một công ty Pháp, phát triển loại lốp radial (lốp xe có bố tỏa tròn – sử dụng cho xe chạy ở tốc độ cao), chính là loại lốp radial mà chúng ta vẫn sử dụng hiện nay, nó giúp ổn định hơn. Michelin đã không bán loại lốp này ở thị trường Mỹ cho đến những năm 1960, nhưng những năm cuối của thập niên 1900 Michelin đã trở thành một trong những nhà sản xuất lốp ô tô lớn nhất thế giới.
Bridgestone, một công ty lốp xe nổi tiếng khác, cũng bắt đầu khởi nghiệp vào những năm 1900. Lúc đầu công ty này chuyên sản xuất quần áo, nhưng đã nhanh chóng chuyển sang khu vực sinh lợi nhiều hơn là sản xuất cao su vào năm 1923. Sau đó, Bridgestone đã mua lại Công ty lốp xe Firestone, một phi vụ khiến họ bị thiệt hại cực kỳ lớn trong những năm 1990.