Nhà văn Tô Hoài có tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 27-9-1920. Ông quê ở làng Kim Bài, nay là thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai nhưng lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức; nay là phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Ông lấy cho mình bút danh Tô Hoài vì nhà ông ở bên sông Tô Lịch và Nghĩa Đô thời Pháp thuộc phủ Hoài Đức (Các bút danh khác: Mai Trang, Vũ Đột Kích, Duy Phương, Hồng Hoa, Thái Yên…). Hoài Đức là một tên đẹp. Có câu: Quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài thổ; quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ nghĩa là người quân tử khao khát và chằm bẵm lấy đạo đức, phép tắc; còn tiểu nhân thì chỉ mong có đất đai, ơn huệ.
Cái Đức mà ông suốt đời theo đuổi ấy, là khát vọng độc lập cho nước nhà, quyền được sống, được tự do và bình đẳng của những người bình dân. Chính vì thế, ông đã sớm gặp và tiếp thu lý tưởng cách mạng; tham gia hoạt động trong các phong trào yêu nước trước năm 1945 như Ban Trị sự Hội Ái hữu thợ dệt Hà Đông năm 1938; Hội Văn hóa Cứu quốc năm 1943… Từ năm 1945-1952, làm báo Cứu quốc của Tổng bộ Việt Minh; sau đó chuyển hẳn sang công tác văn học nghệ thuật; từng là Tổng Thư ký, Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957; trước khi về hưu là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, sáng lập và làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội.
Do ảnh hưởng Thơ mới, thoạt đầu, Tô Hoài cũng men theo con đường thơ để đến với văn học. Song ông sớm nhận ra rằng, trời không cho mình thiên tư đó. Sự tỉnh táo, tính tỉ mỉ, sự quan sát thông minh, óc ngụ ngôn… mới là thế mạnh của ông. Và chính làng Nghĩa Đô toàn ruộng rau muống và ao sâu, những cái ao vừa thả cá, thả bè rau, vừa để vo gạo, nấu cơm, tắm giặt... và trên bờ đầy những cào cào châu chấu, dế mèn; làng quê có những người đàn ông, đàn bà lao động quần quật, vì miếng cơm, vì chút lợi nhỏ nhặt mà nhiều khi cãi vã, chành chọe nhau nhưng dưới đáy sâu là tình làng nghĩa xóm sâu nặng đã tặng cho ông một món quà vô giá: Bối cảnh của tập truyện Dế mèn phiêu lưu ký. Và như vậy, vào năm 20 tuổi, năm 1940, ông đã trở thành một nhà văn thiếu nhi mang tầm cỡ thế giới.
Dù sau này, ông có rất nhiều tác phẩm chấn động dư luận, thì Dế mèn phiêu lưu ký vẫn là tác phẩm số một của ông.
Với hơn 150 đầu sách như Quê nghèo, O Chuột, Giăng thề, Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Chuyện cũ Hà Nội, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Mười năm, Ba người khác… và hàng nghìn bài báo, công trình nghiên cứu khác, Tô Hoài là người có khối lượng tác phẩm đồ sộ bậc nhất trong các nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông từng đoạt nhiều giải thưởng lớn: Giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1956 về tiểu thuyết; Giải thưởng Hội Nhà văn Á Phi năm 1970; Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996.
Tô Hoài là người sinh ra để viết. Và để viết được, ông là người không ngừng đi và nghĩ. Nhà văn Nguyễn Tuân, người đứng đầu của “trường phái xê dịch” đã từng thốt lên: Tô Hoài mới là anh đi nhiều, đi thật; còn tôi là anh đi chơi!
Và trong mỗi chuyến đi, nhà văn rất chăm ghi chép, chuyện gì cũng ghi, ghi rất cụ thể tên người, tên việc và cả các từ ngữ lạ tai. Tôi có người bạn ở 23 Đoàn Nhữ Hài, kề nhà ông là 21 Đoàn Nhữ Hài (ngôi nhà mua được nhờ nhuận bút tác phẩm Vợ chồng A Phủ) nên cũng nhiều khi được trò chuyện với ông. Dường như ở đâu, cái gì, kể cả chuyện bếp núc, xó xỉnh trong làng văn ông đều biết, đều biến thành những câu chuyện vui. Ông ghi nhiều để rồi suy nghĩ, sáng tạo. Thí dụ, ông từng dùng từ cỏ xanh eo éo thì tôi chưa từng thấy bao giờ. Và cái nghĩ của ông cũng kinh người. Có lần một người bạn, là trí thức lớn nói: “Lâu rồi, tôi chẳng muốn gặp ai”. Thế mà ông nâng lên thành “Bây giờ người đã sợ cả người”…
Thời trẻ, đọc Dế mèn phiêu lưu ký, đọc những đoạn văn hết sức sinh động như trong “Cái áo tế” của Tô Hoài, tôi chỉ nghĩ rằng, nhà văn là người có tài, cứ viết ra là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” chứ không biết viết được một đoạn văn như thế này là không biết bao công sức nghe nhìn, vắt óc và luyện chữ: “Lão Đợ ngồi dậy, ưỡn lưng vươn vai. Trở trời mưa nắng với con cá, cũng lắm khi bận tới con người. Tiếng sấm muộn này có khi có chuyện đây, lão lấy cái giỏ giắt vào lưng khố. Chiếc nan chân liền của lão vẫn cắm ngoài mép nước. Hai tay như hai cái vây cá ve vẩy đẩy nan lướt ra. Suốt dải bờ, tiếng óc ách, óc ách như dế kêu, nhảy nhảy trong tai. Như đã trông thấy trong bờ có đến hàng trăm, mấy trăm con chạch chấu đương ngoe nguẩy đào bùn làm lỗ ẩn vào hang”…
Đọc là thấy ngay Việt Nam, thấy ngay người nông dân và nông thôn, thấy tiếng Việt. Bây giờ thì các nhà văn Việt cứ viết như Tây, nhân vật thì cứ như người Hàn Quốc!
Tô Hoài là nhà văn viết nhiều về Hà Nội, có người gọi ông là nhà Hà Nội học. Quả không sai. Ông từng bộc bạch: Hà Nội bây giờ nhà cửa có thể khác tí chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ… đầu vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, vỉa hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lý do dùng đá ốp vỉa hè vì dạo ấy ta chưa có lắm xi-măng. Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ “Marseille”. Đó là nắp cống đúc từ bên Pháp, rồi mang sang bán ở ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp có mở Công ty Sacric. Đấy là công ty gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chuyên chở sang. Thuyền bè bấy giờ tấp nập lắm. Hồ Tây trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả nhiều sen lắm...
Ông nhớ lại cái thôi thúc để viết Truyện Tây Bắc: Chuyến đi tám tháng ấy (1952) là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên. Không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi Tà Sùa rồi cũng vẫy tay gọi theo: “ Chéo lù! Chéo lù!’’ ( Trở lại! Trở lại! ). Không bao giờ quên được vợ chồng Lý Nủ Chu đưa chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ, cùng vẫy tay kêu: Chéo lù! Chéo lù! Hai tiếng “ trở lại, trở lại’’ chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại mà tôi phải đem trở lại cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cuộc đời người H’Mông trung thực, chí tình, dù gian nan đến thế nào, bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại. Chéo lù! Trở lại! Trở lại! Chéo lù! (Tôi viết truyện Tây Bắc).
Không có nhà văn tự mình. Nhà văn là của nhân dân, của dân tộc. Chỉ có tình yêu con người, tình yêu cuộc sống, sự dấn thân vào cuộc sống, nhặt lấy và tôi luyện những hạt vàng của cuộc sống mới làm nên những nhà văn đích thực. Đấy là bài học sâu sắc nhất mà tôi học được từ cuộc đời văn của Tô Hoài, một bài học còn nóng hổi tính thời sự.
Tôi lại càng yêu thêm nghề báo, khi được nghe nhà văn Tô Hoài khuyên: “Một nhà văn Pháp nói: “ Muốn thành người viết tiểu thuyết, trước nhất phải là một phóng viên”. Do làm báo mà tôi (Tô Hoài) được đi nhiều, biết nhiều việc, tiếp xúc nhiều cái mới trên nhiều mặt khác nhau. Do đấy, tôi tập được cách nhận định trước diễn biến của tình hình, và thường là nhận định chính xác, làm nền tảng cho dự báo của văn học. Làm báo là tạo cho mình một bề mặt hiểu biết rộng rãi, một cái nền chắc chắn nhất, không có không xong, để tạo cơ hội đi sâu. Đọc tác phẩm của Êrenbua hay của Aragông, thấy những sáng tác lớn của hai nhà văn đó đều nảy nở trên dòng thời gian của lịch sử thời sự. Nếu không làm một người phóng viên chăm chỉ của thời đại, không thể có được những chứng kiến rộng rãi như thế…
Mỗi tác phẩm của nhà văn là một món quà gửi tặng bạn đọc. Nó có vật phẩm quý bên trong và được gói ghém đẹp. Tôi thường hay đi tàu bè, qua nhiều vùng quê khác nhau từng mua phải những tấm bánh mà sau rất nhiều lớp lá, nhân bánh rất nhỏ, chất lượng kém và quá đát. Nhiều tác phẩm văn học cũng vậy.
Nhưng đọc truyện Tô Hoài ở lớp nào cũng đầy ý nghĩa, tuổi nào đọc cũng thú vị. Hàng triệu người chưa từng biết ông đã say mê đọc văn ông và thán phục ông. Tôi nghĩ hôm nay, ngày mai, ngày mai nữa, người ta vẫn đọc ông, yêu mến ông. Ông vẫn đó, trong từng trang sách, dịu dàng và thủ thỉ giúp ta nghĩ đúng, nhắc ta biết yêu thương con người hơn hết thảy mọi thứ trên đời.