Antoine Henri Becquerel (15 tháng 12 năm 1852 – 25 tháng 8 năm 1908) là một nhà vật lý người Pháp, từng được giải Nobel và là một trong những người phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
Antoine Becquerel, nhà vật lý người Pháp
Thời trẻBecquerel sinh ra ở Paris trong một gia đình bốn thế hệ các nhà khoa học, bao gồm cả con trai của Jean Becquerel. Ông đã nghiên cứu lịch sử tại École Polytechnique (Trường Bách khoa) và kỹ thuật tại École des Ponts et Chaussées (Trường Cầu Đường). Năm 1890, Ông kết hôn với Louise Desiree Lorieux.
Nghề nghiệpNăm 1892, ông trở thành người thứ ba trong gia đình của mình để làm chủ tịch tại Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Tự nhiên. Năm 1894, ông trở thành chánh kỹ sư ở Sở Cầu và đường cao tốc. Trong nửa sau của Becquerel sự nghiệp của mình ở Clifton, Bristol tiến hành nghiên cứu sự phát lân quang của muối urani là một trong những khám phá nổi tiếng nhất của ông.
Năm 1896, trong khi nghiên cứu lân trong muối uranium, Becquerel tình cờ phát hiện ra phóng xạ. Nghiên cứu các công trình của Wilhelm Conrad Röntgen, Becquerel được bao bọc một chất huỳnh quang, uranyl kali sulfat, trong tấm ảnh và vật liệu màu đen để chuẩn bị cho một thử nghiệm đòi hỏi phải có ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, trước khi thực sự thực hiện thí nghiệm, Becquerel phát hiện ra rằng các tấm ảnh đã được tiếp xúc, cho thấy hình ảnh của chất đó. Phát hiện này đã dẫn Becquerel để điều tra sự phát xạ tự phát bức xạ hạt nhân.
Marie Curie (Người cùng nghiên cứu với Henri Becquerel sau khí Henri Becquerel phát hiện ra chất phóng xạ)
Marie Skłodowska-Curie (7 tháng 11 năm 1867 – 4 tháng 7 năm 1934) là một nhà vật lý và hóa học người Ba Lan-Pháp, nổi tiếng về việc nghiên cứu tiên phong về tính phóng xạ. Bà là người đầu tiên vinh dự nhận được hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau, vật lý và hóa học. Marie Curie là giảng viên đại học nữ đầu tiên tại Đại học Paris (Sorbonne), và vào năm 1995 thi thể của bà được mai táng tại điện Panthéon ở Paris vì những đóng góp to lớn cho nhân loại.
Tên khai sinh của bà là Maria Salomea Skłodowska, sinh tại thủ đô Warszawa của Vương quốc Ba Lan. Bà học tập tại Đại học Floating một cách bí mật và bắt đầu nghiên cứu khoa học tại Warszawa.
Nghiên cứu và đoạt giải NobelSau khi tiến sĩ Henri Becquerel phát hiện ra urani có tính phóng xạ (phát sáng), Marie và Pierre cùng nhau nghiên cứu các vật chất phóng xạ, đặc biệt là quặng urani uraninit, có tính chất kỳ lạ là phóng xạ hơn chất urani được chiết ra. Đến 1898 họ đã có giải thích hợp lý: uraninit có một chất phóng xạ hơn urani; ngày 26 tháng 12 Marie Curie tuyên bố sự hiện hữu của chất này.
Sau nhiều năm nghiên cứu họ đã tinh chế vài tấn uraninit, ngày càng tập trung các phần phóng xạ, và cuối cùng tách ra được chất muối clorua (radium chloride) và hai nguyên tố mới, có tính phóng xạ mạnh hơn cả urani. Pierre và Marie quyết tìm ra nguyên tố ấy bằng cách phân tích khoáng vật pitchblend (có chứa urani). Sau khi làm thí nghiệm nhiều lần, ngoài nguyên tố phóng xạ trên còn có một nguyên tố nữa mà Marie phát hiện ra là polonium theo tên quê hương của Marie (Pologne theo tiếng Pháp, Polska theo tiếng Ba Lan), và nguyên tố kia tên radi vì khả năng phóng xạ của nó (radiation).
Tuy nhiên, lúc đầu công bố, do lượng radi trong pitchblend quá nhỏ nên Pierre và Marie chưa thể lọc ra được, vì thế radi không được công nhận. Sau lần đó, Pierre và Marie quyết định lọc radi ra khỏi pitchblend, và trong tám tấn pitchblend thì chỉ có một gram radi nhỏ. Vì thế, nó rất đắt và quý.
Năm 1903 bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng Pierre Curie và Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này.
Tám năm sau, bà nhận giải Nobel hóa học trong năm 1911 cho việc khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium. Bà cố ý không lấy bằng sáng chế tiến trình tách radium, mà để các nhà nghiên cứu tự do sử dụng nó. Bà là người đầu tiên giành, hay chia cùng người khác, hai giải Nobel. Bà là một trong hai người duy nhất đoạt hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau (người kia là Linus Pauling).