Tác giả tác phẩm: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
Ngọc Anh | Chat Online | |
28/10 12:46:17 |
88 lượt xem
Tác giả tác phẩm: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Ngữ văn 8
I. Tác giả Trần Tế Xương
- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương
- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:
+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).
+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).
+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.
- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.
- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.
- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...
- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...
II. Đọc tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.
III. Tìm hiểu tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
1. Thể loại
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Sau khi Pháp tiến hành cuộc xâm lược, văn hóa phương Tây tràn nhanh qua Việt Nam, Hán học đến thời kì suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông chuyển sang dùng bút sắt. Chính vì vậy, các kì thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, khắt khe như trước, thay vào đó là sự bát nháo, hỗn độn.
- Vào khoa thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kì thi Hương ba năm diễn ra một lần vốn từ xưa đều được tổ chức ở Hà Nội, nay bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh ở trường Nam Định thi cùng với thí sinh trường Hà Nội. Chứng kiến hiện thực đầy bát nháo, đau xót đó, Tú Xương đã sáng tác bài thơ này.
- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương
- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:
+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).
+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).
+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.
- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.
- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.
- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...
- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...
II. Đọc tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.
III. Tìm hiểu tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
1. Thể loại
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Sau khi Pháp tiến hành cuộc xâm lược, văn hóa phương Tây tràn nhanh qua Việt Nam, Hán học đến thời kì suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông chuyển sang dùng bút sắt. Chính vì vậy, các kì thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, khắt khe như trước, thay vào đó là sự bát nháo, hỗn độn.
- Vào khoa thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kì thi Hương ba năm diễn ra một lần vốn từ xưa đều được tổ chức ở Hà Nội, nay bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh ở trường Nam Định thi cùng với thí sinh trường Hà Nội. Chứng kiến hiện thực đầy bát nháo, đau xót đó, Tú Xương đã sáng tác bài thơ này.
1. Hai câu đề
- Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
- Thời gian mở khoa thi: Ba năm mở một khoa.
- Hình thức thi: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
à Sự lộn xộn, láo nháo, lôi thôi, thiếu nề nếp, quy củ của cuộc thi.
=> Sự lộn, nhốn nháo, thấy được tình cảnh của đất nước, sự áp đảo của ngoại bang.
2. Hai câu thực
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
- Sĩ tử:
+ Vai đeo lọ à dáng dấp luộm thuộm
+ Lôi thôi sĩ tử: đảo ngữ à nhấn mạnh vẻ nhếch nhác, không gọn gàng của những sĩ tử.
=> Câu thơ vẽ nên viễn cảnh hài hước, chua chát. Họ không có tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.
- Quan trường: dáng vẻ ra oai, nạt nộ
+ Ậm ọe quan trường: đảo ngữ à làm nổi bật đối tượng người coi thi nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai, gượng gạo.
+ Miệng thét loa: sự nhốn nháo, quá lộn xộn của cảnh trường thi.
=> Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm, nề nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới ậm ọe và thét loa như thế.
=> Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất di cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị cũng chẳng còn cáu phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có.
3. Hai câu luận
Hai câu luận tô đậm bức tranh Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm:
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
- Quan sứ, mụ đầm à làm tăng sự lố bịch của cuộc thi.
- Cờ kéo rợp trời: đón tiếp trang nghiêm, linh đình.
- Váy lê quét đất: cách ăn mặc lòe loẹt, lố lăng.
=> Sự phô trường về hình thức, nhố nhăng, lôi thôi.
- Phép đối:
Quan sứ >< bà đầm
Cờ kéo >< váy lê
=> Bức tranh biếm họa về trường thi đầy rẫy những đối lập, ngược đời, trớ trêu.
=> Nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương thể hiện nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.
4. Hai câu kết
- Hai câu kết như một lời than. Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy, tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
- Câu hỏi: Nhân tài đất Bắc nào ai đó à lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy thức tỉnh để trông cảnh nước nhà.
- Ngoảnh cổ: thái độ, tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ.
- Cảnh nước nhà: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước.
=> Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,… Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (Vịnh khoa thi Hương)
Tú Xương là một nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của tác giả.
Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu - có thật trong lịch sử:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”
Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.
“Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây - “cờ kéo rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ.
Cuối cùng, tác giả đã bộc lộ tâm trạng trước tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân.
I. Tác giả Trần Tế Xương
- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương
- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:
+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).
+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).
+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.
- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.
- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.
- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...
- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...
II. Đọc tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.
III. Tìm hiểu tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
1. Thể loại
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Sau khi Pháp tiến hành cuộc xâm lược, văn hóa phương Tây tràn nhanh qua Việt Nam, Hán học đến thời kì suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông chuyển sang dùng bút sắt. Chính vì vậy, các kì thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, khắt khe như trước, thay vào đó là sự bát nháo, hỗn độn.
- Vào khoa thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kì thi Hương ba năm diễn ra một lần vốn từ xưa đều được tổ chức ở Hà Nội, nay bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh ở trường Nam Định thi cùng với thí sinh trường Hà Nội. Chứng kiến hiện thực đầy bát nháo, đau xót đó, Tú Xương đã sáng tác bài thơ này.
- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương
- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:
+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).
+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).
+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.
- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.
- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.
- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...
- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...
II. Đọc tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.
III. Tìm hiểu tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
1. Thể loại
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Sau khi Pháp tiến hành cuộc xâm lược, văn hóa phương Tây tràn nhanh qua Việt Nam, Hán học đến thời kì suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông chuyển sang dùng bút sắt. Chính vì vậy, các kì thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, khắt khe như trước, thay vào đó là sự bát nháo, hỗn độn.
- Vào khoa thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kì thi Hương ba năm diễn ra một lần vốn từ xưa đều được tổ chức ở Hà Nội, nay bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh ở trường Nam Định thi cùng với thí sinh trường Hà Nội. Chứng kiến hiện thực đầy bát nháo, đau xót đó, Tú Xương đã sáng tác bài thơ này.
1. Hai câu đề
- Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
- Thời gian mở khoa thi: Ba năm mở một khoa.
- Hình thức thi: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
à Sự lộn xộn, láo nháo, lôi thôi, thiếu nề nếp, quy củ của cuộc thi.
=> Sự lộn, nhốn nháo, thấy được tình cảnh của đất nước, sự áp đảo của ngoại bang.
2. Hai câu thực
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
- Sĩ tử:
+ Vai đeo lọ à dáng dấp luộm thuộm
+ Lôi thôi sĩ tử: đảo ngữ à nhấn mạnh vẻ nhếch nhác, không gọn gàng của những sĩ tử.
=> Câu thơ vẽ nên viễn cảnh hài hước, chua chát. Họ không có tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.
- Quan trường: dáng vẻ ra oai, nạt nộ
+ Ậm ọe quan trường: đảo ngữ à làm nổi bật đối tượng người coi thi nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai, gượng gạo.
+ Miệng thét loa: sự nhốn nháo, quá lộn xộn của cảnh trường thi.
=> Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm, nề nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới ậm ọe và thét loa như thế.
=> Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất di cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị cũng chẳng còn cáu phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có.
3. Hai câu luận
Hai câu luận tô đậm bức tranh Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm:
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
- Quan sứ, mụ đầm à làm tăng sự lố bịch của cuộc thi.
- Cờ kéo rợp trời: đón tiếp trang nghiêm, linh đình.
- Váy lê quét đất: cách ăn mặc lòe loẹt, lố lăng.
=> Sự phô trường về hình thức, nhố nhăng, lôi thôi.
- Phép đối:
Quan sứ >< bà đầm
Cờ kéo >< váy lê
=> Bức tranh biếm họa về trường thi đầy rẫy những đối lập, ngược đời, trớ trêu.
=> Nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương thể hiện nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.
4. Hai câu kết
- Hai câu kết như một lời than. Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy, tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
- Câu hỏi: Nhân tài đất Bắc nào ai đó à lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy thức tỉnh để trông cảnh nước nhà.
- Ngoảnh cổ: thái độ, tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ.
- Cảnh nước nhà: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước.
=> Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,… Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (Vịnh khoa thi Hương)
Tú Xương là một nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của tác giả.
Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu - có thật trong lịch sử:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”
Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.
“Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây - “cờ kéo rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ.
Cuối cùng, tác giả đã bộc lộ tâm trạng trước tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân.
Tải file tài liệu:
Bình luận
Chưa có bình luận nào, bạn có thể gửi bình luận của bạn tại đây
Tài liệu khác:
- Tác giả tác phẩm: Lai Tân - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Vịnh cây vông - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Trưởng giả học làm sang - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tìm hiểu bài Chùm truyện cười dân gian Việt Nam - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Chiếu dời đô - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Nam quốc sơn hà - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Hịch tướng sĩ - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- Tác giả tác phẩm: Qua Đèo Ngang - Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
Bạn có tài liệu hay, hãy gửi cho mọi người cùng xem và tham khảo tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Đăng tài liệu