Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ

Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
 (không chép trên mạng nha)
3 trả lời
Hỏi chi tiết
153
1
0
rén
22/01/2022 18:01:10
+5đ tặng
Bằng Việt sinh năm 1941, là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp Lửa, một bài thơ có nhiều đặc sắc về giá trị nghệ thuật và nội dung. Đặc biệt có giá trị về mặt nội dung bài thơ, gợi lại những kỉ niệm về người bà, tình cảm bà cháu sâu sắc, thấm thía. Bài thơ đã để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Mở đầu bài thơ là sự hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa và tấm lòng cháu thương bà. Theo dòng hồi tưởng của tác giả, bếp lửa chờn vờn sương sớm là hình ảnh gần gũi quen thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời. Từ láy chờn vờn giúp ta hình dung làn sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa, vừa gợi cái mờ nhạt của hình ảnh kí ức theo thời gian. Ấp iu là một sự sáng tạo của nhà thơ trẻ, gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng tri chút, rất đúng với việc nhóm lửa cụ thể. Đồng thời cách nói ẩn dụ biết mấy nắng mưa gợi ra phần nào cuộc đời vất vả, lo toan của bà. Vậy từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng đến người nhóm lửa, nhóm bếp – đến nỗi nhớ tình thương với bà.

Vậy là kỉ niệm đã sống dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và cuộc sống của hai bà cháu đầy khó khăn, gian khổ:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"

Kỉ niệm thời thơ bé khi lên bốn tuổi kỉ niệm một thời đen tối, đói khổ. Thành ngữ "Đói mòn đói mỏi" phản ánh tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945 có mối lo giặc tàn phá xóm làng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa được nhớ lại trong đó có một ấn tượng về khói bếp. Nhà thơ đã chọn chi tiết thật đặc sắc: Mùi khói, khói hun vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện thấm thía những tình cảm lúc da diết bâng khuâng, xót xa thương mến. Lời thơ nghĩ lại đến giờ sống mũi còn còn cay nhấn mạnh dòng kỉ niệm, xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả thể xác con người. Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa và mùi khói cùng hình ảnh bà hiện ra trong nỗi nhớ thương ngậm ngùi:

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"

Đoạn thơ tiếp theo gợi nhắc một vài kỉ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian "8 năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa" bếp lửa quê hương – bếp lửa của tình bà cháu lại gợi lên một liên tưởng khác, sự xuất hiện của tiếng chim tu hú. Tiếng chim quen thuộc khi vào hè, một điều gì da diết lắm khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Đó là hình ảnh của bà, người bà đáng kính đáng yêu suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc dạy dỗ cháu lên người, lời thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng, nhịp thơ êm ái hài hòa các từ ngữ bà bảo, bà dạy, bà chăm diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà với cháu. Bà thức khuya dậy sớm nhóm lửa làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa cha mẹ trở lên ấm áp. Âm thanh tiếng chim tu hú với hình ảnh bà kết hợp hài hòa được diễn tả với nghệ thuật cảm thán, câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết của cháu với bà. Tác giả khéo lựa chọn hai hình ảnh: Bếp lửa và âm thanh tiếng chim tu hú để nói lên lòng kính yêu sự thương nhớ và biết ơn bà.

“Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi 

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi 

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh 

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: 

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, 

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, 

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!". 

Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng hình ảnh bà càng hiện lên rõ nét cụ thể với những phẩm chất cao quí. Sống trong những năm dài chiến tranh khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, được sự đỡ đần của bà con hàng xóm, hai bà cháu dựng lại túp lều tranh nhưng bà vẫn bình tĩnh vững lòng đinh ninh… làm tròn nghĩa vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng. Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp người đọc hình dung rõ ràng, giọng nói tình cảm suy nghĩ của bà mà còn sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước đầy lòng kiên trì, nhóm lửa, giữ lửa.

"Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen, 

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn, 

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… "

Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng nguyên bên ngoài mà còn chính được nhen lên từ trong lòng bà – Ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương niềm tin bởi vậy từ bếp lửa, gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng khái quát. Như thế hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Đồng thời với nghệ thuật sử dụng điệp ngữ (rồi sớm, rồi chiều) bà ủ sẵn một ngọn lửa thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn bà đối với đức hi sinh tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu.

"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa 

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ 

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm 

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, 

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, 

Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui, 

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ… 

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! "

Những suy nghĩ của cháu về bà và việc bà nhóm lửa trong suốt cuộc đời trải qua "bao nắng mưa mấy chục năm rồi" bà nhóm lửa không chỉ bằng đôi bàn tay gầy guộc mà bằng cả tấm lòng đôn hậu "Ấp iu nồng đượm…" của bà với cháu và mọi người. Điệp từ nhóm cùng câu thơ cảm thán khắc sâu hình ảnh người bà tiêu biểu cho những phẩm chất cao quí của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, nhẫn lại đầy yêu thương. Bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui sự sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho con cháu và mọi người chính vì thế mà nhà thơ cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị gần gũi thân thuộc sự kì diệu thiêng liêng: "Ôi! kì lạ và thiêng liêng bếp lửa". Bếp lửa thật giản dị, bình thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu, thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa tạo lên tuổi thơ ấu của cháu…

"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu, 

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, 

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: 

Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…"

Dù ở đâu, làm gì bây giờ và mãi mãi người cháu không thể quên bà và bếp lửa. Khói trăm tàu, lửa trăm nhà sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về cội nguồn quá khứ dù đó là những ngày vất vả gian lao.

Câu thơ kết trở về thời hiện tại. Nhà thơ lại muốn hỏi bà, nhắc bà việc nhóm bếp để nói cái ý không bao giờ quên quá khứ, không bao giờ quên được hình ảnh bà, của một thời thơ ấu nghèo khổ gian nan và ấm áp nghĩa tình. Như vậy, hình ảnh trung tâm mở đầu khơi nguồn mạch cảm xúc của nhà thơ đã được khép lại bằng chính hình ảnh đấy.

Tóm lại, bài thơ "Bếp lửa" đã khơi dậy cho mỗi chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với quê hương, gia đình và xã hội. Càng đọc, càng suy ngẫm thấm thía từng lời thơ của Bằng Việt ta lại càng hiểu thế nào là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ hình ảnh quen thuộc gắn liền với bếp lửa. Qua bài thơ, tác giả muốn gửi gắm cho các thế hệ chúng ta cần phải nhớ về cội nguồn, nhớ về những nơi đã sinh ra ta khôn lớn, nhớ về những hình ảnh thiêng liêng bên bếp lửa để giúp cho cuộc sống của chúng ta trở lên ý nghĩa hơn.


 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
6
0
Khải
22/01/2022 18:30:11
+4đ tặng

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ "tu hú" được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:

Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (...)

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng.

Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: "Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?" Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

0
1
Nguyễn Ngọc Mai
23/01/2022 12:50:29
+3đ tặng

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, mượt mà khi viết về những kỉ niệm với gia đình, với lứa tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Bếp lửa, được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang học tập tại Liên Xô. Nhớ bà và nhớ những kỉ niệm về bà, Bằng Việt đã viết bài thơ này, nó được trích trong tập Hương cây - Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ. Đọc bài thơ, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.

Hình ảnh bà hiện ra trong kí ức của nhà thơ là ở trong căn bếp của bà:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"

Từ láy "chờn vờn" trong hình ảnh bếp lửa gợi liên tưởng đến trong kí ức của người cháu hình ảnh bà và bếp lửa của bà hiện về chập chờn như khói bếp. Điệp từ "Một bếp lửa" có tác dụng nhấn mạnh cái bếp lửa để nấu cơm, đun nước hằng ngày cũng như là bếp lửa của cuộc đời bà, đã trải qua biết mấy nắng mưa: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Từ chỉ số lượng "một" khắc họa rõ nét hình ảnh bếp lửa của một người bà yêu thương cháu, một mình bà chứ không phải ai khác. Chính trong cái bếp lửa "ấp iu nồng đượm" ấy, người cháu được sống trong tình yêu thương của bà, được bà chở che cả tuổi thơ, cho nên tác giả rất yêu thương người bà của mình.

Nhà thơ gắn liền với một tuổi thơ cơ cực, thiếu thốn trong những năm tháng hai bà cháu sống cùng nhau:

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"

Tác giả là một trong những đứa trẻ phải trải qua những năm tháng vất vả, cơ cực đến mức đói mòn, đói mỏi của cả dân tộc. Hình ảnh khói bếp của bà được nhắc đến trong suốt khổ thơ cho thấy sự thấm sâu vào tâm hồn đứa trẻ của khói bếp. Chính những năm tháng vất vả, thiếu thốn ấy, nhà thơ mới càng thêm trân trọng tình cảm của bà dành cho mình. Nghĩ về những điều đó, nhà thơ thấy sống mũi cay cay, như rưng rưng xúc động trước một quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm tình yêu thương của bà.

Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở những câu thơ tiếp theo:

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!"

Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái đói thêm một ngày nào nữa. Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của tác giả. Từ "tu hú" được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:

"Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học"

Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:

"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"

Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu thương và tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu hú. Hình ảnh "tu hú" lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về những kỉ niệm ngày xưa.

Nếu ở trong những dòng thơ đầu, nhà thơ tái hiện lên cho người đọc những hình ảnh và kỉ niệm của tác giả với bà và bếp lửa của bà thì ở những dòng thơ sau, nhà thơ Bằng Việt lại làm hiện lên những kí ức đau thương mà có lẽ cho đến hiện tại, tác giả vẫn khó có thể quên được.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo