Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Đáp án:
Giải thích các bước giải:
Tố Hữu từng nói: "Thơ chỉ tràn ra trong tim khi cuộc sống đã thật đầy". Còn nhà thơ Xuân Diệu cho rằng: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”. Một bài thơ hay là một bài thơ đẹp cả ở nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Nếu thiếu một trong hai thứ, giá trị bài thơ sẽ giảm đi ít nhiều, thậm chí là không giá trị gì. Nhưng bài thơ "ông đồ" đã hoàn thành rất xuất sắc nhiệm vụ, đẹp cả nội dung lẫn hình thức, và cả tâm hồn tác giả
Đầu tiên, ta cần hiểu rõ câu nói của Xuân Diệu. “Hồn” tức là phần linh hồn, tâm hồn trong cơ thể con người, còn "xác" ý chỉ thân thể, ngoại hình. Một người đẹp cả tâm hồn lẫn thể xác sẽ chính là người được rất nhiều người khác yêu thương, mến mộ. Áp dụng nghĩa thực ấy vào những bài thơ, ta hiểu "hồn" chính là nội dung, là ý nghĩa của bài thơ, là cái mà chỉ những người biết cảm nhận mới "nhìn thấy" bằng trái tim chứ không phải bằng mắt. Còn “xác” ý nói đến hình thức nghệ thuật của bài thơ, thể hiện ở thể loại, hình ảnh, nhịp điệu, từ ngữ,… là phần có thể nhìn thấy được. Mượn hình ảnh “hồn” và “xác”, Xuân Diệu muốn khẳng định rằng một bài thơ phải chứa đựng cả tâm hồn lẫn hình thức đẹp thì mới gọi là một bài thơ hay, qua đó ngầm nói rằng thi sĩ phải biết đem tâm mình đặt vào trong tác phẩm, không phải chỉ biết trau chuốt hình thức mà bỏ quên nội dung. Chỉ khi đó, thi ca mới đạt đến vẻ đẹp hoàn mĩ của một tác phẩm nghệ thuật.
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là một bài thơ đáp ứng được tiêu chuẩn của Xuân Diệu. Nó hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài, hay cả thời điểm tác giả viết tác phẩm và hay đến cả mai sau. Ở khổ thơ đầu, qua hình ảnh ông đồ xưa trong thời kì huy hoàng, tác giả gửi gắm niềm kính trọng, ngưỡng mộ và nâng niu nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Ông đồ xuất hiện bên phố phường đông đúc vào mỗi dịp tết đến xuân về. Hình ảnh “hoa đào nở” đã tươi thắm nay lại thêm “mực tàu giấy đỏ” làm cho khung cảnh đường phố thêm tươi vui, tràn đầy sức sống. Nét đẹp cổ kính và trang nghiêm của ngày tết, kết hợp với hình ảnh ông đồ với chữ thánh hiền khiến cho bức tranh gây được tình cảm kính trọng và gần gũi biết bao. Dòng người đông đúc đều quan tâm và ngưỡng mộ, khâm phục tài viết chữ của ông đồ, bởi nét chữ của ông vô cùng phóng khoáng, bay bổng, khiến tác giả phải dùng đến thành ngữ “Như phượng múa rồng bay” làm toát lên vẻ đẹp của nét chữ phóng khoáng, bay bổng,… Ông đồ là tâm điểm chú ý của mọi người, là đối tượng của sự ngưỡng mộ khi Nho học còn phát triển
Hai khổ thơ tiếp theo tác giả vẽ lên bức tranh ông đồ thời nay, một kẻ sĩ lạc lõng, lẻ loi giữa giữa dòng đời xuôi ngược:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”.
Mùa xuân vẫn tuần hoàn theo thời gian, ta tưởng chừng như ông đồ vẫn sẽ mãi cùng mùa xuân, vẽ nên nền văn hóa dân tộc đến muôn đời. Thế nhưng, thật tàn nhẫn, khi nền Nho học thất sủng, ông đồ cũng bị lãng quên. Mùa xuân đã đến, phố vẫn đông người, ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng không còn ai chú ý đến ông. Mọi người đều đã quên đi một ông đồ từng là đại diện cho quốc hồn quốc túy của dân tộc, chỉ còn vị thi sĩ tài hoa của chúng ta nhớ đến ông. Câu hỏi tu từ và biện pháp nghệ thuật nhân hóa lan tỏa nỗi buồn, thấm cả vào những vật vô tri vô giác. Tất cả như đồng cảm với nỗi niềm của ông đồ trước con người và thời thế. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của mình, Vũ Đình Liên đã gợi lên không gian buồn thảm, vắng lặng, càng nhấn mạnh sự lẻ loi của ông đồ…
Khổ thơ cuối tác giả đã bày tỏ nỗi lòng, khơi gợi ở người đọc niềm thương xót đối với ông đồ, cũng chính là nỗi xót xa đối với một nét đẹp văn hóa của dân tộc bị mai một:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Tết đến, xuân về, hoa đào lại nở nhưng ông đồ xưa còn đâu? Vũ Đình Liên hỏi, nhưng sao không ai trả lời? À phải rồi, ông đã bị lãng quên rồi, còn ai chú ý đến ông đâu ngoài vị thi sĩ này. Câu hỏi tu từ thể hiện niềm cảm thương của tác giả cho những nhà nho danh giá một thời, nay bị lãng quên vì thế thời thay đổi, thương tiếc những giá trị tốt đẹp bị lụi tàn và không bao giờ trở lại.
Bài thơ ông đồ sử dụng thể thơ ngũ ngôn gieo vần chân, lời thơ bình dị nhưng sâu lắng, cô đọng, kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ. Hình ảnh trong thơ giản dị, ngôn ngữ thơ hàm súc, gợi hình, gợi cảm. Kết cấu đầu cuối tương ứng, sử dụng câu hỏi tu từ, nhân hóa, bút pháp tả cảnh ngụ tình,… gieo vào lòng người đọc niềm tiếc thương, day dứt. Không chỉ vậy, bài thơ còn rất hay về nội dung, hay như cách nói của Xuân Diệu là "hồn". Vũ Đình Liên đã bày tỏ niềm tiếc thương vô tận trước một "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn"
Câu nói của nhà thơ Xuân Diệu là bài học cho người nghệ sĩ: Bằng tài năng và tâm huyết của mình, nhà thơ hãy sáng tạo nên những thi phẩm hay và giàu sức hấp dẫn từ nội dung đến hình thức. Tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, trở thành hồn tính, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn. Và bài thơ "Ông đồ" đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |