“Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm tiêu biểu sáng tác trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến với bài thơ, để lại ấn tượng sâu sắc nhất với người đọc là tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó của những anh bộ đội cụ Hồ.
Mở đầu bài thơ là dòng tâm tình của hai người bạn về quê nhà với những câu thơ mộc mạc, tự nhiên:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Quê hương anh ở nơi đồng bằng chiêm trũng “nước mặn đồng chua”, làng tôi ở vùng trung du bạc màu “đất cày lên sỏi đá”. Cả hai vùng quê đều là những vùng quê nghèo, khó trồng trọt. Từ mọi miền của đất nước, buông xuống cái cày, cái quốc, họ đến với chiến trường, họ “chẳng hẹn” mà quen nhau, bởi họ có chung mục đích đánh đuổi giặc Pháp bảo vệ quê hương. Họ cùng nhau trải qua khó khăn, kề vai sát cánh, chia sẻ khó khăn gian khổ:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Từ hai con người xa lạ họ quen nhau, cùng chung lí tưởng mục đích chiến đấu mà trở thành đồng chí của nhau. “Đầu bên đầu” là cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu, “ súng bên súng” là cùng kề vai sát cánh chiến đấu cùng nhau. Hình ảnh sóng đôi được tác giả sử dụng gợi nên tình gắn bó keo sơn của người chiến sĩ. Không chỉ cùng nhau chiến đấu, họ còn cùng nhau chia sẻ với nhau những khó khăn. Đêm tối nơi chiến khu với cái lạnh thấu xương, họ cùng chung nhau cái chăn, truyền cho nhau hơi ấm để vượt qua cái lạnh. Chỉ những hành động ấy mà giữa họ dần trở thành tri kỉ và phát triển thành một thứ tình cảm thiêng liêng hơn. Đó là tình đồng chí. Hai chữ “Đồng chí” vang lên giữa những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, nó vừa là kết thúc của đoạn thơ thứ nhất, vừa là khởi đầu để kết nối đoạn thơ tiếp theo. Nó vang lên như một tiếng gọi thiêng liêng, trầm hùng và đầy xúc động của những người lính. Đó còn là khẳng định của tác giả: Đồng chí là cùng chung hoàn cảnh, cùng chung lí tưởng, mục tiêu cách mạng, cùng chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn, vất vả trong chiến đấu.
Vẻ đẹp của tình đồng chí còn được thể hiện khi họ sẵn sàng chia sẻ cảm thông sâu xa những hoàn cảnh, tâm tư sâu kín của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Khi đã trở thành tri kỉ của nhau, khi tấm chăn đắp chung chùm lên, họ bắt đầu tâm sự với nhau về nỗi nhớ sâu kín của mình. Đó là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương, nhớ những người thân yêu nơi hậu phương của mình. Tình đồng chí hiện lên thật sâu đậm, họ hiểu bạn như hiểu mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh quen thuộc như ruộng nương, giếng nước gốc đa,... gợi nhớ về quê hương của họ. Đặc biệt từ “mặc kệ” được nhà thơ sử dụng tinh tế thể hiện sự quyết tâm ra đi của người lính, lên đường cầm súng đánh giặc. Nỗi nhớ quê hương càng là động lực cho họ vững tay súng.
Tình đồng chí còn được nhà thơ thể hiện rõ nét khi họ sẵn sàng giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Nơi chiến trường, người lính phải trải qua bao khó khăn gian khổ. Trước hết đó là căn bệnh sốt rét quái ác, nguy hiểm và còn trong hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn về thuốc men thì căn bệnh này càng đáng sợ hơn. Những cơn sốt cao, cơn ớn lạnh dày vò các anh đòi hỏi các người lính phải cắn răng chịu được, tự cường, tự lực mà vượt qua. Không chỉ vậy, nơi đây còn thiếu thốn rất nhiều về vật chất : áo rách vai, quần vá, chân không giày. Trong cái thời tiết khắc nghiệt ở chiến khu, các anh trải qua mà chân không vật bao bọc. Nhưng họ chưa bao giờ than vãn, cùng chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau “miệng cười buốt giá”; “ thương nhau tay nắm chặt bàn tay”. Chỉ cần một nụ cười, cái nắm tay ấy thôi cũng truyền cho người lính hơi ấm trong cái giá lạnh, truyền cho họ sự động viên, sức mạnh để vượt qua khó khăn. Từ đó thấy được sự lạc quan của người lính trong khó khăn gian khổ. Điều đó làm cho tình đồng chí thêm gắn bó keo sơn và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong cuộc kháng chiến.
Tình đồng chí cao đẹp nhất có lẽ được biểu hiện trên mặt trận chiến đấu, tôi luyện trong thử thách gian nao:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Trong khoảng thời gian là “đêm nay” với khung cảnh là “ rừng hoang” trong cái hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt là “ sương muối” người lính vẫn đứng bên nhau trong tư thế “chờ” giặc tới. Đây là một tư thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Và khi ấy, ở một góc nhìn nào đó, tác giả đã phát hiện một hình ảnh lạ “đầu súng trăng treo”. Vầng trăng sáng trên đầu trở thành người bạn cùng kề vai sát cánh với người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho người lính trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Súng và trăng, thực tại và mơ mộng, chiến tranh và hòa bình, chiến sĩ và thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cứ đan cài vào nhau tạo nên một câu thơ tuyệt đẹp. Sự đan cài ấy vừa cho thấy hiện thực chiến tranh khốc liệt, khó khăn vừa làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Hình ảnh đầu súng trăng treo như một bức tượng đài sừng sững cho tình đồng chí.
Bài thơ “Đồng chí” đã khắc họa thành công hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ và tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn của họ. Điều đó đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của Chính Hữu.