Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tình cảm cha con trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà"

phân tích tình cảm cha con trong truyện ngắn chiếc lược ngà
3 trả lời
Hỏi chi tiết
50
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, tình cảm giữa cha và con được thể hiện qua những hành động và lời nói của họ.

Đầu tiên, tình cảm của cha dành cho con được thể hiện qua việc cha luôn quan tâm và lo lắng cho con. Cha luôn muốn con học hỏi và trở thành người có ích cho xã hội. Cha cũng dành thời gian để dạy dỗ con, giúp con hiểu rõ về cuộc sống và giá trị của sự hiếu thảo.

Tình cảm của con dành cho cha cũng rất sâu sắc. Con luôn biết ơn và trân trọng tình yêu thương của cha. Con luôn cố gắng làm cho cha hạnh phúc và tự hào về mình. Con cũng luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cha.

Tình cảm giữa cha và con trong truyện ngắn này được thể hiện qua những hành động nhỏ như việc cha tặng con chiếc lược ngà, việc con chăm sóc cha khi cha bị bệnh. Tình cảm này không chỉ là tình cảm gia đình mà còn là tình cảm của sự hiểu biết, tôn trọng và quan tâm đến nhau.

Tóm lại, tình cảm cha con trong truyện "Chiếc lược ngà" là một tình cảm ấm áp, sâu sắc và đầy ý nghĩa. Đó là tình cảm của sự hiểu biết, quan tâm và chia sẻ giữa hai người trong gia đình.
0
0
Ng Quynh Nhu
01/06 19:02:41
+5đ tặng
 

"Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn hay viết về đề tài tình phụ tử. Đọc tác phẩm, điều khiến người đọc cảm động nhất chính là tình cảm mà cha con ông Sáu và bé Thu dành cho nhau. Câu chuyện về tình cảm gia đình thiêng liêng, sâu sắc trong kháng chiến đã đọng lại trong lòng người những suy nghĩ những bài học bổ ích.

 

Tác phẩm ra đời năm 1966, lấy bối cảnh là cuộc kháng chiến chống Mĩ của đồng bào Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh bom rơi, đạn nổ, kẻ thù không chỉ chia lìa đất nước mà còn chia lìa từng gia đình ấy, tình cảm gia đình lại được thể hiện đậm nét, cảm động hơn bao giờ hết. Ông Sáu khi đi kháng chiến có một đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi. Trong những năm tháng kháng chiến, vì cô bé còn nhỏ nên đi thăm chồng, vợ của ông không mang theo con. Bởi vậy, ông chỉ được nhìn con qua những tấm ảnh nhỏ mà thôi. Và giờ đây, khi trở về thì tình cha con ấy lại trỗi dậy trong lòng, ông cảm thấy nôn nao. Ngay lập tức, khi xuống thuyền, thấy một đứa bé chừng bảy, tám tuổi, tóc ngang vai thì ông Sáu biết ngay đó là con mình. Không chờ xuồng cập bến, ông đã nhún chân nhảy thót lên bờ, vội vàng bước những bước dài rồi kêu: "Thu! Con!".

 

Điều đó thể hiện một tình cảm của người cha một cách tự nhiên, quá xúc động. Dường như chính lúc này đây, trái tim của người cha tội nghiệp reo lên đầy sung sướng khi sau tám năm trời mới được nhìn thấy mặt con và dường như ông cũng mong sự đáp lại tình cảm của con. Nhưng con bé lại đầy ngơ ngác, lạ lùng, không biết đó là ai. Còn ông Sáu thì vẫn đầy xúc động miệng nói không thành lời, giọng lặp bập: "Ba đây con"! Lúc đó chính là lúc cái tình của người cha lên đến đỉnh điểm và không thể toát ra bằng lời vì ông đã quá xúc động. Việc bé Thu sợ hãi chạy ào đi như một gáo nước lạnh dội mạnh vào trái tim đang nóng bỏng của ông Sáu. Ông đứng sững lại đầy sững sờ, thảng thốt.

 

Những ngày sau đó, ông Sáu vẫn cố gắng để con nhận ra mình là cha. Cả ngày ông chẳng đi đâu xa, suốt ngày ở bên con, săn sóc, vỗ về con. Song càng vỗ về bao nhiêu con bé lại càng đẩy ông ra bấy nhiêu. Ông chỉ mong có một điểu là được gọi mình một tiếng "ba". Chỉ một tiếng "ba" mà thôi! Nhưng chẳng có điều gì khác ở con gái ông ngoài sự thờ ơ, lạnh lùng thậm chí thù ghét. Những hành động của ông Sáu giúp đỡ con hay vỗ về nó đều bị con bé phản ứng lại. Chỉ có tình cha sâu nặng mới giúp ông kiên trì vượt qua điều đó. Đến một bữa cơm, khi ông gắp cái trứng cá to, vàng bỏ vào bát nó thì bất thần con bé hất ra, cơm văng tung toé và không kịp suy nghĩ gì ông đã đánh một cái vào mông nó. Ông Sáu hẳn đã vô cùng ân hận vì giây phút nóng nảy đó của mình.

 

Trong ba ngày nghỉ ngắn ngủi, ông đã ở bên con nhưng con không nhận. Giờ đây ngày chia tay bà con làng xóm ông định mang theo nỗi buồn đó. Nhưng trong lúc không ai ngờ đến đó, một tiếng kêu đã xé lòng ông: "Ba... a...a... ba". Tiếng "Ba" đó là sự dồn nén trong Thu tám năm nay và bây giờ nó vỡ tung ra từ ngay trong sâu thẳm đáy lòng con bé. Tiếng "Ba" với nó là điều khát khao hơn mọi đứa trẻ khác vì ngay từ nhỏ nó đã không có tình yêu thương của cha. Giờ đây tiếng "Ba" vang lên đầy tự nhiên, ngỡ ngàng trong giây phút cuối cha con chia tay. Và bây giờ nó muốn có ba, nó bật khóc vì hạnh phúc, nó hôn tóc, hôn cổ và hôn với vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Hoá ra, lí do nó không nhận ba là do vết thẹo oan nghiệt đó - vết thẹo do kẻ thù của gia đình đó, của đất nước đau thương này gây ra. Nhưng vừa nhận ra thì cũng là lúc phải chia tay. Sung sướng và có lẫn sự xúc động ông ôm con và tạm biệt nhưng con bé không muốn ba phải đi. Cho đến khi ông hứa mua cho nó một chiếc lược thì nó mới để cho ba nó đi.

 

Ở chiến trường tuy chiến tranh đầy ác liệt nhưng ông vẫn cố công làm bằng được chiếc lược ngà. Trong khi làm, ông Sáu cảm thấy vui như đứa trẻ nhận được quà. Ông cố gắng làm tỉ mỉ, thận trọng cố công như người thợ bạc. Khi chiếc lược được làm xong ông cảm thấy sung sướng vì mình như đã thực hiện được phần nào lời hứa. Sau đó ông lại khắc trên sống lưng chiếc lược "Yêu nhớ tặng con, Thu của ba". Hàng đêm nhớ con ông lại đem lược ra ngắm chải lên đầu cho lược thêm bóng, mượt... Trong giờ phút cuối cùng, tuy không đủ sức trăng trối, nhưng tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong con người ông. Ông đưa chiếc lược cho Ba - một người đồng đội thân thiết và nhìn Ba hồi lâu như trăng trối rằng: "Hãy đưa chiếc lược này đến cho Thu". Cái nhìn đó có thể nói rằng đó là cái nhìn của sự nhờ cậy, tin cậy, gửi gắm cả tâm hồn ông qua đó. Tình cha con đầy thiêng liêng, cao quý trỗi dậy ngay cả khi con người ta đang đối mặt giữa sự sống và cái chết. Khi Ba nhận lời thì ông mới nhắm mắt. Sau này, bác Ba đã gặp Thu - giờ đây là cô gái giao liên dũng cảm và bác đã trao lại kỉ vật đó cho Thu.

 

Tình cảm ông Sáu dành cho con sâu nặng bao nhiêu, tình cảm Thu dành cho ba cũng nồng nàn bỏng cháy bấy nhiêu. Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Bức ảnh cha cô mà cô khắc ghi bấy lâu trong tâm khảm không có vết thẹo trên mặt như ông Sáu - người cứ nhận mình là cha bé! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết liệt con người ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình yêu ấy thật sâu sắc: nó chỉ có một, không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.

 

Đến lượt mình, Thu cũng đáp lại tình cảm của ba một cách cảm động. Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên, buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa." Không hiểu con bé "nghĩ ngợi sâu xa" điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó - không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước - nói: "Ba đi nghe con" thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba, a... a…ba!". 

 

Rồi ôm chặt lấy ông nức nở "Con không cho ba đi". Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. "Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.

 

Sau này, thấu hiểu sâu sắc nguyên nhân gây ra vết thẹo trên mặt cha, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc. Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Đọc thiên truyện, người đọc hẳn đã có lần rơi lệ vì cảm động. Và còn vì thấy trong đó thấp thoáng đâu đây bóng dáng bản thân, của người cha thân yêu của mình nữa. Tình phụ tử đó chính là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cõi đời này. Và bởi thế, đọc "Chiếc lược ngà" để ta trân trọng hơn những người thân yêu ruột thịt quanh mình, trân trọng hơn những tình cảm sâu sắc ta đang được nhận. Và hơn hết, đọc thiên truyện ngắn này, ta biết yêu thương, sẻ chia và sống xứng đáng với những đấng sinh thành của bản thân.

 

Không chỉ gợi những tình cảm trong sáng, cao quý, "Chiếc lược ngà" còn mang đến cho người đọc những bài học nhân sinh đầy nhân ái. Và vì thế, đây thực sự là một thiên truyện hay trong hành trang của những người Việt trẻ!

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
+4đ tặng

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn gốc An Giang, những tác phẩm của ông gắn liền với vùng đất và con người miền Tây Nam Bộ. “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm hay và tiêu biểu của ông. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật, truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh.

Trong chiến tranh, sự mất mát, thiệt thòi, hy sinh về tình cảm gia đình là điều tất nhiên. Ông Sáu xa nhà đi theo tiếng gọi của kháng chiến khi con gái đầu lòng mới tròn một tuổi. Ông trở về thăm nhà sau tám năm xa cách gia đình, nhưng trớ trêu thay, bé Thu không nhận ra ông là ba. Khi vừa gặp gỡ, Thu ngờ vực, lảng tránh, thậm chí còn bỏ chạy vì sợ hãi bởi “vết thẹo bên má phải cứ mỗi khi anh xúc động lại đỏ ửng lên, giật giật trông rất dễ sợ”.

Trong những ngày ông ở nhà, Thu kiên quyết không nhận ông là ba mặc dù ông đã tìm mọi cách để gắn kết tình cha con với cô bé. Sự cương ngạnh của cô bé không đáng trách vì em còn quá nhỏ để có thể hiểu được những khó khăn, mất mát và xa cách mà chiến tranh mang lại và em cũng chưa thể sẵn sàng để đón nhận người ba sau một khoảng thời gian dài như thế.

Em không nhận ông Sáu là cha vì sau nhiều năm, chiến tranh đã khiến ông có vết thẹo dài trên má không giống bức hình chụp chung với má mà em biết. Điều đó chứng tỏ Thu có tình cảm dành cho ba nhưng chỉ là do em chưa sẵn sàng. Em chưa biết chắc đó là ba nên không thể biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên được.

Buổi sáng sớm cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường trở lại chiến khu, thái độ của Thu đột nhiên thay đổi. Trong đêm bỏ về nhà ngoại Thu đã được bà giải thích về vết sẹo trên má của ba. Bé hiểu ra, cảm thấy ân hận và hối tiếc vô cùng: “nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Lúc chia tay “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của bé thật dễ thương”.

Khi ông Sáu ngậm ngùi nhìn con để chào từ biệt, “đôi mắt mênh mông của con bé xôn xao” tình cha con đã dồn nén bấy lâu nay chợt vùng lên mạnh mẽ, vô cùng hối hả, cuống quýt. Thu thét lên gọi ba “tiếng kêu của nó như tiếng xé”, “xé tan sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe thật xót xa”. Hành động của cô bé cũng thay đổi “nó nhảy thót lên, dang cả hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”…

Tất cả những biểu hiện đó của bé Thu đều bắt nguồn từ tình cảm thương yêu và nhớ mong dành cho người ba mà nó hằng tôn kính, tôn thờ và không ai có thể thay thế được. Ở Thu sự ương bướng và mạnh mẽ nhưng vẫn có nét ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ. Bằng tâm hồn tinh tế, một trái tim nhân hậu và chứa chan tình yêu thương đối với tình cảm gia đình, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến sâu sắc nhất những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế.

Tình cảm của ông Sáu đối với bé Thu được biểu hiện qua chuyến về thăm nhà sau tám năm xa cách. Khi xuồng còn chưa kịp cập bến, nhìn thấy con gái ông đã vội vàng “nhảy thót lên, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: “ba đây con! ba đây con””. Ông cứ tưởng sẽ ào tới, ôm lấy cổ ba cho thỏa những ngày tháng xa rời. Nhưng không, ông hụt hẫng khi “bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy”.

Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu chỉ ở nhà tìm cách gần gũi, gắn kết với con, chỉ mong nghe một tiếng “ba” từ con gái mà không được. Có lúc giận quá ông đã không kiềm chế mà đánh con. Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu khiến ông “một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt”.

Càng cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng lần đầu tiên này cũng chính là lần cuối cùng anh được nghe tiếng gọi ba thân thương từ bé Thu, bởi vì sau đó, anh đã không thể trở về một lần nào nữa!. Trong những ngày ở chiến khu, anh ân hận vì những lần đã trót đánh con. Khi nhặt được một khúc ngà voi anh vui mừng như trẻ nhỏ “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Những ngày sau đó tất cả tình cảm yêu quý, nhớ thương con anh đều dồn vô việc làm cây lược. Anh “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng và tỉ mỉ”, anh còn khắc lên “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”… Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra chải lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt.

Những lúc ấy anh tha thiết mong có một lần về phép thăm nhà để anh tự tay mình cầm cây lược chải lên mái tóc cho con… Nhưng chiến tranh tàn khốc đã cướp mất giấc mơ đó, khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái mình được nữa. Anh đã hy sinh trong một trận càn quét lớn của địch. Những lời trăn trối cuối cùng “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, anh cầm cây lược trao cho anh Ba với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời.

Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành một kỷ vật tình cha con, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn như cắt vào tim mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Câu chuyện cảm động của cha con ông Sáu đã phản ánh giá trị hiện thực trong chiến tranh. Chiến tranh ác liệt và phi nghĩa đã cướp mất đi hạnh phúc gia đình của bao nhiêu cuộc đời. Tác giả đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo và miêu tả tâm lý nhân vật rất thực và hợp lý, chỉ có trong chiến tranh và nhờ tình huống này mà tình phụ tử được khắc sâu tô đậm như một lẽ sống. Qua đó, Nguyễn Quang Sáng cũng bộc lộ thái độ căm ghét với chiến tranh. Và vì vậy, giá trị nhân đạo của tác phẩm càng nâng cao.

1
0
Hươngg Hươngg
02/06 10:44:19
+3đ tặng

Đại văn hào Andersen từng nói: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống vẽ nên.” Dù hiện thực đau khổ đến đâu, vẫn le lói những ánh sáng trong trẻo, ấm áp đong đầy. Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ từ “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà các nhà văn luôn mải miết đi tìm. Và Nguyễn Quang Sáng là một người đi tìm miệt mài như thế. Giữa tháng ngày gian khổ, tối tăm nhất của kháng chiến chống Mỹ, ông vẫn thấy tia sáng xanh ngời từ tình cảm chân thành trong những người dân, người lính. Để rồi, tất cả đã được nhà văn soi chiếu vào tình cha con sâu nặng trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”.

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành gắn liền với cả hai cuộc kháng chiến, là một cây đại thụ của văn học cách mạng Việt Nam. Tác phẩm của ông như thâu tóm được cả hồn cốt Nam Bộ, có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái khoáng đạt giản đơn của người dân miền sông nước. Cùng với Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng,… “Chiếc lược ngà” cũng nằm trong mạch nguồn ấy. Được viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt nhất, truyện ngắn tuy viết về chiến tranh nhưng lại tập trung làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng cao quý. Tựa như câu chuyện cổ tích thời hiện đại, tác phẩm đã làm rung động trái tim bạn đọc bao thế hệ bởi tình yêu thương con thắm thiết bất diệt của Ông Sáu, tình yêu ba sâu nặng đầy kiêu hãnh của bé Thu…..

Tựa như mặt nước ngọt lành và trong veo đến lạ, văn chương luôn phản chiếu nội tâm con người. Bởi thế mà lật giở từng trang sách “Chiếc lược ngà” ta như mở từng cánh cửa, từng bước khám phá tình yêu thương da diết, chân thành dành cho con sâu trong lòng một người cha, người lính.

Là một người con Nam Bộ, ông Sáu chẳng thể làm ngơ khi mảnh đất quê hương bị lũ mọi rợ giày xéo. Nghe tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, ông lên đường cùng dân tộc bước vào cuộc trường chinh. Hạnh phúc gia đình ông xếp lại ngăn nắp trong tim, ông đi kháng chiến khi đứa con gái đâu lòng còn chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ thương con, khao khát gặp con lúc nào cũng thường trực như con sóng cuộn trào nơi tấm lòng người ba ấy. Không giây phút nào ông nguôi nhớ đến con, tình yêu con trở thành động lực, sức mạnh tinh thần vô giá giúp ông thêm chắc tay súng diệt sạch bóng thù để sớm có ngày đoàn tụ.

Và ước muốn cháy bỏng của ông cuối cùng cũng đã thành sự thực. Sau tám năm xa cách ông có dịp về thăm nhà ba ngày. Trên đường trở về “cái tình người cha đã và cứ nôn nao trong dạ”. Thế nên thuyền vừa vào đến, thấy đứa trẻ trạc độ lên chín lên mười tóc ngắn ngang vai, mặc áo bông đỏ đang mải mê chơi nhà chòi dưới gốc xoài ông đã đoán biết đấy là con mình. Phải chăng đó là sức mạnh diệu kỳ của tình máu mủ? Phải chăng từng ngày nơi quân ngũ, người cha ấy đã luôn mường tượng dáng hình của con, hằng khát khao ôm ấp, vỗ về. Cho nên linh cảm ruột thịt đó mới chuẩn xác đến vậy. Nó bồn chồn xao động, nó da diết khôn nguôi, nó như những tế bào hồng cầu trong từng tơ máu, máu còn chảy, tim còn đập thì lòng người không thể nào nguôi ngoai. Và nó làm lý trí trở thành công cụ của con tim. Không thể chờ xuồng cập bến, ông nhón chân nhảy thót lên bờ vội vàng với những bước dài,vừa đi vừa kêu to “thu,con”! Những bước chân như chiếc bản lề cửa, tạm khép lại cuộc đời “người lính” để mở ra cơ hội làm trọn một “người cha” cho ông Sáu. Với ông, chờ đợi thêm một phút một giây nào nữa thôi, có lẽ cũng đủ bóp nghẹt trái tim. từ nôn nao tâm trạng ông Sáu đã chuyển sang nôn nóng. Có lẽ bởi: “Có hai điều không thể bỏ lỡ trong cuộc sống, đó là chuyến xe cuối cùng về nhà và người ta yêu thật lòng” (Nguyễn Nhật Ánh). Đây là lần trở về đầu tiên sau tám năm xa cách và cũng có thể là sau cuối của ông, là cơ hội hiếm hoi để ôm con vào lòng, sống trong tình cha con ấm áp mà ông chưa từng được hưởng. Vậy mà mọi chuyện diễn ra thật éo le. Trong khi ông vừa bước tới vừa dang tay đón chờ thì con bé lại ” giật mình tròn mắt nhìn” , cái nhìn vừa lạ lùng vừa ngơ ngác. Không ghìm nổi xúc động, vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên, hai tay vẫn đưa về phía trước “ba đây con, ba đây con”. Người đọc cảm nhận trong giọng nói “lặp bặp run run” ấy, là cả tiếng lòng, cả tâm hồn người cha đang reo lên vì hạnh phúc. Một hạnh phúc vô bờ khi hội ngộ khiến người đàn ông từng vào sinh ra tử chợt nghẹn ngào khôn xiết, tưởng như tất cả là một giấc mơ và chỉ có thể cất tiếng “run run” , khẽ khàng để không thức dậy. Song, với một đứa trẻ chỉ mới tám tuổi, tất cả lại trở thành sự vồ vập thái quá, nôn nóng thái quá,đặc biệt khi vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên,dần dật trông rất dễ sợ càng làm con bé nghi ngại. Nó mặt tái đi,vụt chạy , vừa chạy vừa kêu thét “má má”. Phản ứng sợ hãi của bé thu khiến ông Sáu đau đớn hụt hẫng. “Đau đớn khiến mặt anh sầm lại, hai tay buông thõng như bị gãy” ở đây nỗi đau tinh thần được cảm nhận bằng nỗi đau thể xác. Thì ra có một nỗi đau chẳng kém gì súng mìn đạn dược, thì ra sự quay lưng từ chính người thân yêu ruột thịt có thể kéo người ta từ bầu trời hạnh phúc, hi vọng xuống thung lũng đau thương như vậy. Đôi tay dang rộng để chào đón con nhưng nhận lại chỉ là một khoảng trống. Một khoảng trống vô hình mà lại trĩu nặng ngàn cân, làm cánh tay từng gánh vác bao đầu súng, tiêu diệt kẻ thù giờ đây mất hết sức lực và đôi chân từng vượt mọi hang sâu hốc đổ cheo leo chỉ có thể “đứng sững lại”. Phải chăng vì cả cõi lòng người cha ấy đã bị vùi trong thất vọng ập đến quá đỗi bất ngờ? Ngược lại với những mong đợi của ông, ngược lại với khung cảnh thường thấy của những cuộc đoàn viên, hành động bỏ chạy đi của bé Thu còn khiến người cha ấy tan vỡ hơn cả một cuộc chia ly.

Nhưng tình phụ tử sâu nặng nào dễ lụi tàn, ông Sáu vẫn kiên trì dùng tấm lòng chân thành của mình làm chất củi, đốt lên ngọn lửa yêu thương ấm áp để truyền đến,sưởi ấm cho con. Hai ngày ở nhà ông chả dám đi đâu xa chỉ quanh quẩn dỗ dành con. nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Mặc kệ những lời nói cử chỉ vỗ về làm thân bé Thu vẫn một mực tỏ ra thờ ơ lạnh lùng. Ông càng xích lại con bé lại càng lùi xa, ông càng yêu thương con bé lại càng lảng tránh. Ông thèm ước được nghe một tiếng “ba” nhưng gọi ông vào ăn cơm con bé cũng nói cộc lốc, phải chắt nước nồi cơm đang sôi nó cũng nhất quyết không chịu nhờ ông. Bao tiếng đạn nổ bom rơi khốc liệt, ám ảnh người chiến sĩ ấy gắng vượt qua chỉ mong ngày trở về đổi lấy tiếng “ba” từ đứa con thân yêu nhất. Nhưng giờ đây, con gọi cha là “người ta”, chẳng hơn chẳng kém gì người dưng nước lã! Cách cư xử ấy, thái độ ấy của bé Thu, hẳn là đã cứa sâu vào lòng ông Sáu , để lại vết xước lớn, nhức nhói hơn cả vết thẹo trên gương mặt. Khổ tâm hết sức, song ông chỉ biết lắc đầu khe khẽ cười. Quả thực: “Có lẽ vì khổ tâm đến mức không khóc được nên đành phải cười vậy thôi.” Tiếng cười nhưng lại mang thanh âm tiếng khóc, lại là giọt nước mắt dồn nén, theo đường chảy ngược vào trong. Phải chăng đúng như Nguyễn Ngọc Tư từng chiêm nghiệm: “ Nước mắt chảy từ con mắt là thứ thường thôi, có thứ nước mắt không chảy ra kiểu như vậy.” Đó mới là đau đớn tận cùng, gắng gượng dùng nụ cười trên môi che đậy vết nứt trong lòng. cũng từng vì thương con mà Lão Hạc “cười như mếu”, bà cụ Tứ qua ngòi bút Kim Lân cố “tươi cười, đon đả”, không dám để con nhìn thấy bà khóc”. Nhưng khi khổ tâm chất chồng, cuối cùng sẽ đến lúc không thể kìm nén nổi. Trong bữa cơm trưa, có miếng trứng cá ngon, ông Sáu gắp vào bát Thu nhưng con bé lại hất miếng trứng cá đi,như hắt hủi một cách phũ phàng nhất tình cảm của cha. giọt nước tràn ly, vào phút giây tức giận ông vung tay đánh con một cái. Nhưng đó đâu phải hành động bạo lực đáng lên án như người cha vũ phu, đánh con mình trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, người cha “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát…” Bởi trong lời trách mắng: “Sao mày cứng đầu quá vậy hả” ta còn thấy xen lẫn trong cảm xúc tức giận không sao kìm nén đc là băn khoăn, thất vọng, đau khổ rồi lực bất tòng tâm. Tất cả hiển hiện, sưng tấy trên trang viết, tất cả xé toạc thành vết thương không thể khép miệng trong lòng người cha rất mực thương con nhưng lại bị con kiên quyết chối từ. Ngọn lửa yêu thương mỗi lần bền bỉ thắp sáng lên lần nữa lại tiếp tục bị dòng nước băng giá một mực vùi lấp. Cô bé nào hiểu cho những nỗi niềm giấu kín đang dồn nén trong lòng cha,những nỗi niềm đang bắt buộc phải được trút xuống, được thoát ra. Lúc này, Thu vẫn tỏ ra lì lợm “ngồi im, đầu cúi gằm” sau đó lặng lẽ đứng dậy đi ra xuồng chèo một mạch sang nhà bà ngoại. Tác giả không miêu tả tâm trạng của ông Sáu trước hành động quyết liệt cuối cùng này nhưng chính khoảng lặng đó cũng đủ lắng sâu vào lòng độc giả, đọng lại một nỗi lòng khắc khoải vì con. Yêu chiều không được, cứng rắn cũng không xong, ông Sáu phải làm sao đây? Người cha, người lính trên trang viết Nguyễn Quang Sáng tìm mọi cách làm đủ mọi điều để có được tình cảm từ con, đối lập với bậc sinh thành của chị em Điền trong “ Cánh đồng bất tận” – 1 người cha đối với con “ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng”, 1 người cha “ giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.”

Đến lúc chia tay, tình phụ tử không chỉ là khoảng lặng nữa, mà thể hiện bằng một nốt giáng trầm hơn qua “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” ông sáu nhìn con.Ông muốn mà không dám đến ôm Thu, sợ nó giãy lên bỏ chạy nên chỉ dám nhờ ánh nhìn bộc bạch hộ tâm tư. Đôi mắt như mặt hồ, yên ả, dịu dàng ăm ắp tình thương cho con; nhưng cũng mang nỗi buồn ko ngớt tựa những gợn sóng lăn tăn cứ nối tiếp nhau trải mãi. Ba ngày quý giá sắp trôi qua mất rồi, chưa kịp nghe tiếng ba, đã phải trở lại cùng tiếng súng… Trước lúc lên đường ông chỉ chào nhỏ với giọng buồn buồn ” thôi ba đi nghe con”.ai cũng nghĩ Thu chỉ đứng nhìn như thế,nhưng bất ngờ nó lại kêu lên một tiếng “ba” tức tưởi, vỡ òa. Ông Sáu trong giây phút sững sờ một lần nữa không ghìm nổi xúc động . Người đàn ông bao phen xông pha trận mạc ấy tay ôm con, tay lau nước mắt. Đến đây ta mới thực sự hiểu vì sao giọt nước mắt là “giọt châu của loài người”, là miếng kính biến hình của vũ trụ” (Nam Cao). Giọt nước mắt của ông Sáu rơi xuống, đã ngân vang sự bất ngờ đang reo lên thánh thót, đã lấp lánh niềm hạnh phúc vô bờ của một người cha lần đầu được nghe con gọi ba sau bao nhiêu mong mỏi. Giọt nước mắt đã gột rửa đi mọi buồn khổ để nhường chỗ cho một niềm vui tươi sáng. Nhưng thực cảnh miền Nam thân yêu bấy giờ vẫn còn rất tối tăm. đây cũng có thể là giây phút cuối cùng cha con đc ở cạnh nhau. Vì vậy trong giọt lệ ấy vẫn có cả nỗi nghẹn ngào, tiếc nuối. Và ông Sáu vẫn phải tạm biệt con, lên đường đánh giặc.

Hành trang quan trọng nhất người cha ấy mang tới chiến trường có lẽ là tình phụ tử sâu sắc, là nỗi ân hận vì lỡ đánh con,là lời dặn của con ” ba về ba mua cho con cây lược nghe ba”. Ông quyết định tự làm 1 chiếc lược ngà tặng Thu. Kiếm đc khúc ngà, ông ” hớn hở như một đứa trẻ đc quà ” rồi ” ngồi cưa từng chiếc răng lược tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”, ” gò lưng tỉ mẩn khắc từng chữ yêu nhớ tặng Thu con của ba” . Tình yêu con đã biến người chiến sĩ ấy trở thành một nghệ nhân – người nghệ nhân chỉ làm một tác phẩm duy nhất trong đời. Tình yêu là con trở thành nét hoa tay đặc biệt nhất để người lính vốn quen với súng đạn, khói bom đã khéo léo hơn bội phần. Lời nói yêu, nhớ Thu nào chỉ khắc lên chiếc lược, mà vốn còn khắc sâu vào lòng ông Sáu từ lâu. Chỉ cần khoảnh khắc con gọi “ba” , với vòng tay ôm và cái hôn thắm thiết đã đủ trở thành động lực lớn lao nhất để người cha ấy cầm súng chiến đấu. Đúng như Haruki Murakami từng nói:”Hạnh phúc luôn ngắn ngủi, nhưng trong những ngày tháng mệt mỏi của cuộc đời , chỉ cần nhớ về một khoảnh khắc hạnh phúc đã từng có, người ta lại có can đảm để sống.” (Ký ức được đánh số). Mỗi đêm nhớ con ông lại mang cây lược ra ngắm rồi mài lên tóc mình cho thêm bóng. Chiếc lược chưa chải được mái tóc Thu lần nào nhưng đã gỡ rối được một phần những tâm trạng ngổn ngang của ông. Nó trở thành cầu nối giữa cha con ông, thay cho lời xin lỗi lúc ông đánh con. Chiếc lược ấy là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu thiêng liêng. Cũng kết đọng cả tấm lòng người cha dành cho con là những bức thư tay nhân vật bố của cậu bé Enricô trong “Những tấm lòng cao cả” viết gửi con mình. Bao nhắn nhủ chân thành về lẽ sống, cách làm người, bao yêu thương bày tỏ nơi câu chữ: “Bố rất yêu con, con ạ.” Nhưng nếu Enrico nhận được thư từ cha đều đặn mỗi tháng 1 lần thì bé Thu không được may mắn như vậy.

Ông Sáu ao ước đến ngày gặp lại con, trao cho con cây lược nhưng lại ngã xuống trong một trận càn của giặc. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, ông thu tất cả tàn lực lấy cây lược trong túi đưa cho ông Ba và nhìn ông Ba hồi lâu. Ánh nhìn ấy trước lúc hi sinh còn thiêng liêng hơn cả những lời di chúc bởi đó là một sự ủy thác , là ước nguyện cuối cùng của ông, ước nguyện của tình phụ tử. Nếu Voltaire từng quan niệm: “chân lý cuối cùng trên cõi đời này vẫn chỉ là yêu. yêu là sống và còn sống là còn yêu” thì tình phụ tử giữa ông Sáu và bé Thu dường như đã vượt qua giới hạn của thế gian, đời người : “chỉ có tình cha con là kh thể chết đc”. Chiến tranh có thể lấy đi tất cả nhưng không thể giết chết được tình cha con trong trái tim người chiến sĩ bộ đội cụ hồ ấy.

Nếu ví tình cha của ông Sáu như ánh nắng trưa hè rực rỡ, chói ngời tâm trí độc giả thì tình cảm Thu dành cho cha sẽ là ánh nắng ban mai.ban đầu phải để ý kĩ mới thấy lấp ló qua tán lá, và đúng lúc vầng dương lên hẳn, ta mới bất ngờ, ấn tượng vì sức tỏa sáng khắp không gian của nó. Thu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ông Sáu phải rời nhà đi kháng chiến từ lúc em chưa đầy một tuổi. Lớn lên mà chưa 1 lần đc cảm nhận hơi ấm của tình cha, em chỉ có thể nhìn ba qua tấm ảnh chụp chung với má. Thương nhớ bao nhiêu em cũng chỉ biết mang tấm hình ra ngắm. Hình ảnh cha đẹp đẽ hiền từ luôn in sâu trong tâm trí Thu, dù mới chỉ nhìn qua khung ảnh nhỏ ấy. Tận sâu trái tim cô bé ấy là khao khát cháy bỏng được gặp ba. Sau tám năm xa cách mới được gặp ba lần đầu- người cha bằng xương bằng thịt vậy mà em lại không nhận ra. Với 1 đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, một người đàn ông lạ tiến đến đường đột và vồ vập quá mức, ngay lập tức gọi mình là ‘con’ xưng ‘ba’, phản ứng của Thu "giật mình tròn mắt nhìn”, rồi sợ hãi chạy vụt đi cũng dễ hiểu. Đặc biệt khi hình ảnh ba trong tâm trí em vô cùng hiền hậu đẹp đẽ, không hề mang vết thẹo dài trên mặt, lại đỏ ửng, dần dật dễ sợ như vậy.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo