Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Ngữ văn - Lớp 12
27/06/2021 09:25:31

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói và hai con mắt còn cay sè của hắn.

Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươn mươn niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rá mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

(Trích Vợ nhặt - Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.30)

Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo mà nhà văn Kim Lân gửi gắm qua nhân vật.

4 trả lời
Hỏi chi tiết
6.306
3
0
Hằngg Ỉnn
27/06/2021 09:26:25
+5đ tặng
Giới thiệu tác giả, tác phẩm

_Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê và hình tượng người nông dân. Đó là mảng hiện thực mà ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Ông viết chân thực và xúc động về đời sống người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết, thủy chung với quê hương và cách mạng. Sáng lên trong các tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, chất phác, lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa.

_Vợ nhặt của Kim Lân xứng đáng thuộc loại những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Có nhà nghiên cứu văn học đã xếp Vợ nhặt vào loại gần như “thần bút”.

Giới thiệu nhân vật Tràng

a.Chân dung, lai lịch

_Lai lịch: dân ngụ cư – tha phương cầu thực, không sống được ở quê mình nên tìm đến một vùng đất khác ->bị kì thị, phân biệt, đối xử.

+Không được chia ruộng đất.

+Không được sống cùng trong không gian của ngôi làng, phải sống ở rìa làng hoặc ngoài đê.

+Không được tham gia sinh hoạt bất cứ sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã.

_Gia cảnh: nghèo.

+Gia đình chỉ có mẹ góa con côi, bố mất sớm.

+Công việc bấp bênh, không ổn định: kéo xe bò thuê.

_Chân dung ngoại hình:

+Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều.

+Hai bên quai hàm bạnh ra.

+Thân hình to lớn vập vạp.

+Vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ.

+Ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.

=>Có sức hấp dẫn với lũ trẻ con trong xóm

=>Hội tụ đầy đủ các yếu tố bất lợi để có thể lấy được vợ.

b.Sự kiện mang tính bước ngoặt cuộc đời: Tràng “nhặt”vợ:

_Xuất phát từ những câu bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”

_Sự chia sẻ, thương cảm giữa những người đồng cảnh.

_Từ lời nói đùa của Tràng, thị theo về thật.

Phân tích sự thay đổi của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên

_Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình.

+Tràng tỉnh dậy muộn -> trong người cảm thấy dễ chịu, êm ái, lửng lơ như người từ trong giấc mơ đi ra

->tâm trạng ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.

+Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ:

++Nhà cửa được dọn sạch sẽ hẳn.

++Không khí gia đình: mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa.

=>Thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc:

+Thấm thía cảm động

+Bỗng thấy thương yêu, gắn bó

+Vui sướng, phấn chấn

->Nhận thức mới mẻ: nhận thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.

->Hành động: Xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà.

->Muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.

_Có lẽ chính những hạnh phúc khi có một gia đình khiến Tràng có những khát khao đổi đời ở phần cuối truyện. Tràng bắt đầu quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội; hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới lần khuất, ẩn hiện trong tâm trí Tràng. Đó là dấu hiệu của một tương lai tươi sáng.

_Nghệ thuật:

+Khả năng khám phá và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình.

+Sử dụng ngôn ngữ người nông dân rất tự nhiên, đưa ngông ngữ đời sống của người dân vào trang văn. Vì vậy nhân vật hiện lên chân thực, sống động.

Liên hệ với sự thay đổi của nhân vật Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở

*Giới thiệu nhà văn Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo:

_Nam Cao là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Phải đến Nam Cao, trào lưu văn học hiện thực chủ nghĩa mới thực sự tự giác về những nguyên tắc sáng tác của nó.

_Chí Phèo thuộc thể loại truyện ngắn nhưng có dung lượng của tiểu thuyết. Tác phẩm này đã đưa Nam Cao lên vị trí là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

*Giới thiệu nhân vật Chí Phèo:

_Xuất thân: là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, được anh đi thả ống lươn nhặt được, mang về cho một bà góa mù, bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng.

-> Mồ côi, bị trao qua đổi lại, lớn lên trong sự cưu mang của cộng đồng.

_Khi lớn lên (20 tuổi): Chí Phèo làm canh điền cho nhà lí Kiến, lành như đất -> lương thiện đích thực:

+ Cày cấy thuê để kiếm sống.

+ Khi bị bà ba gọi vào bóp chân, Chí chỉ thấy nhục -> có lòng tự trọng.

+ Mơ ước về mái ấm hạnh phúc, giản dị: chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…

=> Là một người lương thiện.

_Sau đó chính cái xã hội tàn ác đã đẩy Chí vào con đường tha hóa, biến Chí thành thằng lưu manh.

*Phân tích sự đổi thay của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở:

Chính cuộc gặp gỡ giữa Thị Nở và Chí Phèo đã đánh thức Chí khỏi những cơn say triền miên:

_Thức tỉnh tính người qua giọt nước mắt:

+ Khi đón nhận bát cháo hành và những cử chỉ săn sóc của Thị Nở, Chí Phèo bâng khuâng.

+ Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà.

_Thức tỉnh tình người – biểu hiện cao nhất là tình yêu:

+ Thấy Thị Nở có duyên -> bản chất của tình yêu.

+ Khao khát chung sống với Thị Nở -> đích đến của tình yêu chân chính.

+ Không còn kinh rượu nữa nhưng cố uống cho thật ít; trở nên hiền lành đến khó tin.

-> Sức mạnh cảm hóa của tình yêu.

_Thức tỉnh khát vọng người:

+Khát vọng hoàn lương -> Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn.

_Cuối cùng, định kiến xã hội cũng đã giết chết Chí, Chí không có cơ hội được sống một cuộc đời tử tế mà hắn tự liễu đời mình.

Nét tương đồng và khác biệt

*Tương đồng:

_Đều viết sự thay đổi của hai người nông dân.

_Tình yêu thương chính là nguyên nhân làm thức tỉnh những cảm xúc, cảm giác của các nhân vật.

*Khác biệt:

_Mỗi nhân vật lại có chiều hướng phát triển số phận theo các cách khác nhau: Tràng là dấu hiệu của sự đổi đời còn Chí Phèo lại đi vão ngõ cụt của sự tuyệt vọng, bi kịch.

*Lí giải khác nhau:

_ Chí Phèo là sáng tác chịu ảnh hưởng của cảm quan hiện thực trước Cách mạng của nhà văn Nam Cao. Nhân vật chưa tìm được lối thoát cho mình.

_ Vợ nhặt là sáng tác chịu ảnh hưởng của cảm quan hiện thực sau Cách mạng của nhà văn Kim Lân. Nhân vật đã tìm được lối thoát cho chính mình

Tổng kết

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Bảo
27/06/2021 09:26:29
+4đ tặng

im Lân là nhà văn sớm nhập cuộc xã hội. Ông là tấm gương lớn về sự nỗ lực tự học. Do hoàn cảnh gia đình khó khắn Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Cuộc đời rộng lớn chính là trường đại học của ông. Đấy là cơ sở cho những trang viết vừa bề bộn chất sống, vừa rất đỗi tinh tế, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Truyện ngắn này không chỉ hấp dẫn người đọc bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, mà còn ở chỗ nhà văn đã xây dựng thành công những nhân vật chính như anh cu Tràng để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật cũng thể hiện giá trị nhân đạo và vẻ đẹp của tình người trong tác phẩm.

“Vợ nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai triệu người chết đói. Nhân dân Việt Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo. Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi cùng. Đó là nạn đói chưa từng có trong lịch sử. Nhưng điều kì lạ là trong đói khát tăm tối ấy, cận kề bên miệng vực của cái chết, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh sáng, hạnh phúc, tương lai. Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này.

Tràng là một gã trai nghèo khổ, cái nghèo khổ đến tột cùng. Cái nghèo ấy hiện hữu trong “chiếc áo nâu tàng”, cái nhà Tràng thì “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”, và Tràng chỉ là người kéo xe bò thuê. Đến cái tên cũng thể hiện sự thô kệch, nghèo khó: Tràng – một dụng cụ dùng trong nghề mộc. Ngòi bút của Kim Lân đã vô cùng sống động khi khắc họa bức chân dung của Tràng: ”hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra”, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạp vạm, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngòi bút của Kim Lân, Tràng hiện lên như một bức chân dung vẽ vội, một hình hài mà tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí, nghèo khổ, ở tầng lớp cùng đinh mà Tràng còn là người dở tính, “hắn có tật vừa đi vừa nói”, “hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ thỉnh thoảng còn ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch".

Tràng là một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể thực sự hạnh phúc. Trước tình huống “nhặt” vợ, tâm lý của Tràng diễn biến thành những chặng sau.

Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định vừa tầm vơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng hò một câu cho đỡ nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”

Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt, bàn đầu chủ yếu cũng là đùa. Tràng mới đầu cũng “chợn” nghĩa là sợ, nhưng rồi tặc lưỡi: ”Chậc! kệ” - một quyết định có vẻ như đùa đối với sự kiện trọng đại của đời người. Song hoàn cảnh ấy, cái tặc lưỡi của Tràng là một sự táo bạo liều lĩnh. Tràng đã dám đánh cuộc với cái đói, cái nghèo để đi đến miền hạnh phúc của đời thường.

Chặng hai của diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng là những cảm xúc tự đắc, hồi hộp xen lẫn niềm vui khi “nhặt” được vợ. Hạnh phúc tạo niềm vui lớn cho Tràng, nhà văn Kim Lân nhắc ta nhớ đến hình ảnh đôi mắt của Tràng lúc này sáng lên lấp lánh, nụ cười tủm tỉm. Đó là ánh mắt nụ cười của con người đang sống trong cảm giác hạnh phúc. Lần đầu tiên đi bên cạnh người đàn bà, Tràng lấy làm hãnh diện vô cùng, mốn nói một câu cho thật tình tứ nhưng chẳng biết nói thế nào thành ra những câu đối đáp với vợ trở nên cộc lốc, nhát gừng, rời rạc, bởi hạnh phúc đến với Tràng quá bất ngờ. Tràng đã sống trong cảm giác hạnh phúc: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở”. Kim Lân đã chọn được một từ chân quê nhưng rất chính xác “phớn phở” để diễn tả tâm trạng sung sướng, hồ hởi, hân hoan được biểu lộ ra ngoài gương mặt nhân vật. Khi chứng kiến hình ảnh những người dân ngụ cư tò mò quan sát sự xuất hiện của mình với người đàn bà lạ, Tràng lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc. Càng về gần nhà thì dường như chất men tình say sưa trong Tràng càng ngấm nhiều hơn và trở thành cái nghĩa tình hết sức thấm thía: “Trong một lúc, hình như Tràng quên hết những cảnh sống khổ cực ê chề… trong lòng hắn lúc đó chỉ còn lại cái nghĩa tình giữa hắn và người đàn bà đang đi bên cạnh. Có cái gì mới mẻ, lạ lắm “ở người đàn ông nghèo khổ này”. Cũng trên đường về nhà, hình tượng Tràng cũng được nhà văn Kim Lân khắc họa rất chân thực, người đàn ông ấy hình như cũng có cái nhìn bối rối khi thấy người dân xóm ngụ cư quan tâm. Nhưng có lẽ, cùng với niềm vui hạnh phúc, người ta bắt gặp ở Tràng một người đàn ông đã trưởng thành, chững trạc, điều đó bộc lộ ở cách ứng xử. Trước lời trêu đùa của đám trẻ con Tràng đã mắng yêu: “Bố ranh”. Tràng khéo léo từ chối những lời chèo khéo mời mọc của những người dân xóm ngụ cư để đưa vợ về một cách khéo léo. Tràng khoe chai dầu mới mua bằng hai hào với lí do “vợ mới vợ miết cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ”. Lời nói giản dị nhưng chứa đựng trong đó bao nhiêu nhận thức, tình cảm của nhân vật: có được vợ một cách dễ dàng nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ, ngược lại vẫn trân trọng hạnh phúc.

Khi vào nhà, với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ trọng trong cuộc đời, quyết định tương lai hạnh phúc. Thông thường việc này phải được hai bên cha mẹ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng hoàn toàn bất ngờ. Bởi vậy ban đầu Tràng cũng có tâm lí lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp mẹ, Tràng như một đứa trẻ, reo lên: “U đã về đấy!… Sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột”. Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy, Tràng lấy lại được sự bình tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa “Kìa nhà tôi nó chào u”. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ… chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối quan hệ của mình với người phụ nữ để người nghe và bà cụ Tứ buộc phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lí giải mối quan hệ với vợ là duyên số – một cách lý giải của một người từng trải, chín chắn, chững chạc.

Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn còn tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn cô vợ ngồi ngay giữa nhà mà Tràng vẫn không thể tin là vợ mình. “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Chao ôi hạnh phúc giữa năm đói như một điều xa xỉ, cầm nắm ở trong tay mà vẫn không tin đó là sự thật.

Những cảm xúc hồi hộp, lo lắng, hạnh phúc lẫn lộn Tràng dần chuyển sang ý thức được hạnh phúc bản thân. Con người mong hạnh phúc đến và hạnh phúc đến lượt nó có thể làm thay đổi con người. Trước hạnh phúc Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rẩy sống trong một cảm giác rất người: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Hắn đã có một gia đình: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy…”. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Hai chữ “nên người” hạ xuống như một điểm nhấn xác nhận sự biến đổi về chất ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Là căn cốt của nhân tính. Tràng phục sinh nhân tính nhờ vươn tới ý thức về gia đình.

Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn này:” Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn là một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là hăm hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng “ngật ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động xăm xăm này là một đột biến không chỉ ở dáng đi mà còn là thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa từng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Gót chân đến với hạnh phúc của Kiều táo bạo thế mà cứ chênh vênh, đơn độc khiến cho người đọc lo lắng bởi chỉ có một mình giữa đêm trăng trung cổ. Còn cái “xăm xăm” của Tràng mới vững khỏe, tự tin làm sao, bởi Tràng có cả một gia đình. Và đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.

Khi ý thức được tương lai hạnh phúc của riêng mình, tâm trạng Tràng chuyển biến sang một dự cảm đổi đời. Khi miếng cám đắng chát, ngậm ứ xuất hiện trong âm thanh tiếng trống thu thuế, dồn dập, là lúc cuộc sống đã bị đẩy đến miệng vực của cái đói, cái chết thì cũng là lúc hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên làm nên một câu rất quan trọng của tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Lá cờ đỏ - hình tượng thoáng qua ấy khi được đặt vào đoạn kết mang bao sức nặng về tư tưởng và nghệ thuật cho thiên truyện. Nếu vắng chi tiết này tác phẩm sẽ xa lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự có mặt của chi tiết nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một cái kết mở nhờ thế thiên truyện đã đóng lại. Nhưng số phận nhân vật vẫn tiếp tục được vận động theo hướng lạc quan, đi lên chứ không bế tắc như anh Pha của Nguyễn Công Hoan, chị Dậu của Ngô Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao… Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng đã vẫy lên như một tín hiệu đổi đời, một tương lai tươi sáng.

Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định hiện thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn cảnh để khẳng định tư cách ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện được thành công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người vào sự sống: “sự sống chẳng bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao cả và rất riêng của Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác viết về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói.


 
8
0
+3đ tặng

Tác giả Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn. 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim). Tác phẩm chính của ông bao gồm: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê- những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là những "thú đồng quê", "phong lưu đồng ruộng" như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,... Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ- những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê VN thiếu thốn, nghèo khổ mà yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. 2001, Kim Lân được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Truyện ngắn Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962). Trong đó đoạn trích từ "Sáng sớm hôm sau" cho đến hết đã cho thấy những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân và hoàn cảnh khó khăn của họ, cùng với đó là giá trị nhân đạo mới mẻ của nhà văn Kim Lân. 

Đầu tiên, nhân vật Tràng cho ta thấy được vẻ đẹp của người nông dân đó là khao khát hạnh phúc, no ấm và tình cảm gia đình. Sau khi có vợ, sáng hôm sau cuộc sống của Tràng đã trở nên đổi khác. Từ ngày có Thị về, nhà cửa gọn gàng hơn, cuộc sống của Tràng đổi khác và trong chính tâm hồn của Tràng cũng đổi khác. Tràng ý thức được bổn phận của mình đó là chăm lo cho gia đình. Từ đó, hắn mới "nên người" và "hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này", "hắn cũng muốn làm một việc gì đó để dự phần tu sửa lại căn nhà". Gia đình họ cũng êm ấm, hạnh phúc vô cùng. Dù bữa cơm đạm bạc và hoàn cảnh gia đình nghèo đói nhưng đó là khung cảnh gia đình êm ấm, hòa thuận của những con người nghèo khổ khát khao hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Đó chính là tia sáng xuất hiên trong cuộc đời đen tối của họ. Về phía nhân vật Thị, Thị đã thay đổi tâm tính, không còn chao chát, đanh đá như lần đầu gặp hắn nữa. Thị đã trở thành người phụ nữ đảm đang, chu toàn và chu đáo với gia đình. Bản tính tốt bụng, chăm lo cho gia đình của Thị hàng ngày đã bị che lấp bởi cái đói nghèo. Bây giờ, bản chất tốt đẹp ấy lại được thể hiện ra. Mọi thành viên trong gia đình đều cố gắng thu xếp nhà cửa. Vì trong họ có hy vọng sẽ vượt qua giai đoạn tăm tối ấy. Vẻ đẹp của những người nông dân chính là vẻ đẹp của sự hy vọng, của niềm tin sáng ngời trong cuộc sống khó khăn. Từng câu từng chữ miêu tả khung cảnh cuộc sống của những người nông dân trong đoạn trích đều diễn tả cuộc sống êm ấm, bình dị và hạnh phúc. Tuy cuộc sống ấy có nghèo nhưng ta vẫn thấy được cuộc sống ấy tươi đẹp và hạnh phúc trong mắt những người nông dân ấy đến nhường nào. Đồng thời, ta cũng thấy được sự tài tình của nhà văn trong việc miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật và phát triển mạch truyện tự nhiên. Những người nông dân trong các tác phẩm của Kim Lân luôn mang vẻ đẹp giản dị và thông điệp nhân văn về cuộc sống hạnh phúc mà tác giả muốn gửi gắm qua họ. Cùng với đó, hoàn cảnh khó khăn của họ được tái hiện qua bữa cơm sáng hôm đó. Một bữa cơm không thể thảm thương hơn, cùng đó là hình ảnh của nồi cháo cám. Nồi cháo cám thể hiện cho sự nghèo khó đến tột cùng của gia đình những người nông dân lúc bấy giờ. Thế nhưng, sau đó, sự nghèo đói đã đưa đến kết thúc mở cho truyện đó là hình ảnh của lá cờ phấp phới, mở đường cho những người nông dân nghèo khó lúc bấy giờ phá kho thóc của Nhật để có thể sống sót khỏi nạn đói. Đây chính là giá trị nhân đạo vô cùng mới mẻ và tràn ngập giá trị nhân văn mà nhà văn mang đến cho tác phẩm của mình. 

Tóm lại, phẩm chất của những người nông dân trong đoạn trích đó là niềm tin, hy vọng cho cuộc sống khó khăn, tăm tối. Bản chất của họ đều lương thiện, tốt bụng nhưng bị cái đói nghèo che lấp đi mất. Những người nông dân trong truyện ngắn của Kim Lân luôn mang màu sắc chân thực của bản chất lương thiện hiện lên trong cái đói, cái khổ. Từ đó, ta thấy được giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc đã làm nên giá trị của tác phẩm Vợ nhặt - một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng.

2
0
Tâm Như
27/06/2021 09:34:05
+1đ tặng

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn với đề tài quen thuộc là hình ảnh nông thôn và người nông dân. Khác với tác giả Tô Hoài – ông không khai thác cuộc sống của người dân nơi rẻo cao Tây Bắc mà lại lặn sâu vào cuộc sống của người dân quê – những con người gắn bó thiết tha với quê hương và cách mạng. Trong đó, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho tài năng của Kim Lân. Và trong suốt những trang sách kể về tình huống nhặt vợ có một không hai trong nền văn học Việt Nam, diễn biến tâm lí nhân vật Tràng đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Nạn đói năm 1945 đã khiến cho hơn hai triệu người chết, tình hình đất nước rơi hẳn vào cảnh u ám, tối tăm: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây/ Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy/ Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ” (Văn Cao). Nhiều gia đình trở thành nạn nhân, rơi vào cảnh khốn cùng, bị đe dọa bởi miếng cơm manh áo, trong đó, có gia đình Tràng. Tràng là một thanh niên xấu xí, nghèo khổ, mưu sinh bằng nghề kéo xe bò thuê, cùng sống với mẹ già nơi xóm ngụ cư. Giữa lúc cái đói đang bám riết sự sống, Tràng dẫn về một người phụ nữ xa lạ, đúng hơn là một người vợ anh mới “nhặt” được bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng đón nhận người con dâu đáng thương kia bằng tâm trạng ngổn ngang, âu lo. Và kết thúc tác phẩm là chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói được đan cài cùng niềm tin tưởng le lói vào tương lai qua hình ảnh lá cờ trong đầu Tràng “Trong đầu Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Trong suốt đoạn trích, ta có thể dễ dàng quan sát tâm trạng của Tràng qua sự kiện nhặt vợ: Tràng trước khi nhặt được vợ và Tràng sau khi nhặt được vợ.

Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Họ chỉ là những nạn nhân của mất mát đau thương, ngày ngày đi trên lằn ranh của sự sống và cái chết. Mới lần đầu gặp gỡ, “thị cười tít mắt” với Tràng sau khi đẩy xe bò lên dốc tỉnh. Gặp gỡ lần thứ hai, thị “sưng sỉa, cong cớn, chao chát, chỏng lỏn” đòi ăn cho bằng được. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng hò chơi cho đỡ nhọc, Tràng mời thị bốn bát bánh đúc vì lời thất hứa và sự xót thương cho hoàn cảnh: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” và cùng lời nói đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng ai ngờ được: “Nói thế Tràng cũng được là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh: “Chậc, kệ!”.

Sau khi nhặt được vợ, tâm trạng Tràng có sự thay đổi rõ rệt. Có ai ngờ được làm câu hôn ngờ nghệch đã thay đổi tâm trạng và số phận của những con người trong gia đình đói khổ. Đời sống tinh thần chuyển những gam màu u ám, chết chóc sang ấm áp và hi vọng. Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Khi chấp nhận thị làm vợ, Tràng đã thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của một người chồng: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…” Tràng còn hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong từng nấc thang suy nghĩ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Khi đi bên thị, Tràng rụt rè bỡ ngỡ khác thường, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại cứ cảm thấy ngường ngượng. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh động của Tràng. Tràng hôm nay đã thực sự khác với Tràng hôm qua. Một cuộc hôn nhân đã khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có điều kiện bộc lộ. Cảnh đời tối tăm, sự đói khát dường như đã tạm lùi để còn lại là niềm vui sướng miên man: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve dọc sống lưng”. Hạnh phúc đã thực sự làm thay đổi mọi thứ.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng cảm thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực, sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ - lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le như thế này: “hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng nôn nóng sốt ruột, cứ đi đi lại lại. Chưa bao giờ hắn lại thấy nôn nóng như thế. Phải chăng Tràng nóng lòng thông báo tin vui này cùng mẹ, nóng lòng khoe cái hạnh phúc đơn sơ giản dị này cho những người thương yêu? Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con. Anh không phải là người vô tư, nông cạn mà vô cùng sâu sắc và hiểu đời. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là hệ trọng cả đời, ý thức được sự thay đổi tinh thần của mình. Đây là khoảnh khắc thiêng liêng mà trong hoàn cảnh đói kém đương thời, không phải ai cũng có được.

Sáng hôm sau, cảm nhận đầu tiên của Tràng là: “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng cảm động khi thấy hình ảnh mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa, cảm động nghe tiếng chổi sàn sạt trên sân. Sự yêu thương nảy nở từ bên trong: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Tràng bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của sự sống, suy nghĩ về cuộc đời ở tương lai. Khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên dữ dội, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi. Tràng nghĩ đến cảnh “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được tài miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Lúc này đây, Tràng không còn là nhân vật khô cứng trên trang giấy nữa mà như một con người thật hiển hiện trước mắt người đọc. Đặt nhân vật trong một hoàn cảnh độc đáo cùng với ngôn ngữ phù hợp với tính cách, Kim Lân đã khắc họa thành công giá trị hiện thực cùng giá trị nhân đạo cao cả, thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

Tóm lại, qua diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cánh nhân vật. Chính những con người như Tràng, như thị, như bà cụ Tứ đã làm cho ta thực sự yêu thương, khâm phục và kính trọng.



Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-tich-dien-bien-tam-trang-nhan-vat-trang#anc1588669305936

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo