Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về 8 câu thơ đầu và 12 câu thơ tiếp trong đoạn trích chị em Thúy Kiều

Cảm nhận của em về 8 câu thơ đầu và 12 câu thơ tiếp trong đoạn trích chị em thúy kiều
3 trả lời
Hỏi chi tiết
257
1
0
thảo
19/08/2021 15:54:35
+5đ tặng

Tham khảo:

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới, là nhà thơ xuất sắc Việt Nam cuối thế kỉ thứ 18 đầu thế kỉ thứ 19. Thuý Kiều là một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du. Đây là tác phẩm có giá trị rất lớn về nội dung tư tưởng và nghệ thuật . Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” được trích ở phần 1- Gặp gỡ và đính ước, trong Truyện Kiều . Đoạn trích đã tập trung miêu tả người bằng nghệ thuật đặc sắc và thành công nhất của tác giả.

Bút pháp tả người của Nguyễn Du trước hết là bút pháp ước lệ tượng trưng thường gặp trong thơ cổ điển. Tả về chị em Thuý Kiều tác giả bắt đầu từ cái chung:

“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Nga
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Đầu tiên tác giả giới thiệu gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng Thuý Kiều là chị Thuý Vân là em cả hai đều là những cô gái đẹp “Tố Nga” tác giả sử dụng hai hình ảnh ẩn dụ ước lệ tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần” để miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều họ mang vóc dáng thanh cao mảnh dẻ yểu diệu mềm mại như cây mai suy nghĩ tinh cảm tâm hồn trắng trong như tuyết cả hai đều đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại một vẻ . Tiếp đó tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh chọn lọc từ ngữ tiêu biểu :

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoang trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát đuợc nhân vật bằng 4 chữ “trang trọng khác vời” , nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái của Thuý Vân .Vẫn bằng bút pháp ước lệ tượng trưng với những hình ảnh quen thuộc nhưng tả Vân tác giả có nhiều hướng tả cụ thể trong thủ pháp liệt kê cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật riêng đối tượng miêu tả “đầy đặn nở nang đoan trang”, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá
“khuôn trăng nét ngài hoa cuời ngọc thốt mây thua tuyết nhường góp phần thể hiện vẻ đẹp phúc hậu quí phái của Thuý Vân . Khuôn mặt tròn trịa toả sáng đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cuời tươi như hoa, giọng nói trong trẻo toát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn .

Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô gái đoan trang phúc hậu. Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh “mây thua tuyết nhường” , nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng suôn sẻ hạnh phúc .

Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. Nếu Thuý Vân được giới thiệu qua 4 câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thuý Kiều được miêu tả qua 12 câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy làm nổi bật nhân vật chính của tác giả :

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nết xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”

Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ ẩn dụ “làn thu thuỷ nét xuân sơn”(nước mùa thu, núi mùa xuân). Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Điều đáng chú ý là khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt thể hiện phần hình ảnh của tâm hồn và trí tuệ. “Làn thu thuỷ” gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt; “nét xuân sơn”gợi lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt trẻ trung. Bằng hình ảnh nhân hoá “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, tác giả làm nổi bật dung nhan của Kiều đằm thắm khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua điển tích điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”. Nàng quả là một trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không chỉ đẹp mà còn rất đa tài:

“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân”

Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ “pha nghề ca hát đủ mùi”, tài đàn “ăn đứt”, âm luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh”- chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc tài và tình.

Chân dung Thuý Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá phải ghen ghét vẻ đẹp của nàng “hoa ghen liễu hờn” nên số phận của nàng sẽ éo le đau khổ.

Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du giới thiệu về cuộc sống của chị em Thuý Kiều “tuy là khách hồng quần” đẹp thế lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần kập kê nhưng cả hai vẫn sông một cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:

“Êm đềm trướng dủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Đoạn thơ có âm điệu nhẹ nhàng tạo nên một cuộc sống yên vui êm ấm của những thiếu nữ phòng khuê.

Đoạn trích Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nhất trong Thuý Kiều, ngôn ngữ thơ tinh luyện giàu cảm xúc, nét vẽ hàm súc gợi cảm, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá để dựng lên bức chân dung hai chị em Thuý Kiều. Đáng quí là bức chân dung tuyệt vời ấy lại được dựng lên bằng tình yêu thương trân trọng đối với con người của tác giả. Đọc đoạn trích ta cảm nhận được vẻ đẹp tài sắc của Thuý Kiều và thấy mình cần phải tích cực tu dưỡng rèn luyện để trở thành con người toàn diện, có ích cho đất nước ngày mai.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nguyễn Nguyễn
19/08/2021 15:55:01
+4đ tặng

Truyện Kiều là một thiên trường thi bất hủ của văn học Việt Nam, được viết bởi danh nhân văn hoá Nguyễn Du. Tác phẩm xoay quanh tấn bi bi kịch cuộc đời của Thúy Kiều- một người con gái sắc nhưng bạc mệnh. Đoạn trích Trao duyên có thể xem là đoạn tuyệt bút của tác giả trong việc diễn tả nỗi đau của Kiều khi rơi vào bi kịch tình yêu tan vỡ. Mười hai câu đầu bài thơ là cảnh Kiều nhờ em gái mình nối duyên cùng Kim Trọng.

Kiều đang trong độ tuổi xuân xanh, nàng có mối tình đẹp đẽ với Chàng Kim nhưng sóng gió bất ngờ ập đến, gia đình nàng gặp biến cố do bị vu oan. Để cứu cha và em khỏi chốn ngục tù tăm tối, Kiều buộc phải chấp nhận bán mình. Trọn chữ hiếu nhưng phụ chữ tình, để đáp đền nghĩa Kim Trọng, sau bao nghĩ suy, đấu tranh tâm lý suốt đêm dài, Kiều ngậm ngùi cậy nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim.

"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Thuý Kiều nhờ em gái thay mình nối tiếp đoạn duyên dang dở với Kim Trọng-một người mà trước đó Vân chưa thực sự biết. Là một người tinh tế, hơn ai hết Kiều hiểu với Vân đây là lời đề nghị có phần đột ngột, bởi việc kết duyên là chuyện hệ trọng của cả một người, liệu có mấy ai dám đánh đổi hạnh phúc đời mình để gắn bó với một người xa lạ. Vì vậy mà lời Kiều vừa tha thiết, vừa như trông cậy nài ép. Hai tiếng “cậy em” mang trong đó cả niềm trông mong, tin tưởng của Kiều dành cho Vân, đó không phải là “nhờ” mà là “cậy” để thể hiện sắc thái mong cầu, có phần nài ép em của Kiều, hy vọng Vân có thể nghe mình mà chấp nhận. Chữ “chịu lời” được đặt tương ứng với chữ “cậy” đầu câu kết hợp cùng chữ “có” khiến câu trở nên cô đọng hơn, ý thơ vừa có vẻ như ướm hỏi lại vừa có vẻ như nài ép. 

Hành động “lạy”, “thưa” của Kiều với Thuý Vân cũng thật bất ngờ, bởi lẽ thường có ai chị lại đi lạy, thưa em bao giờ, đặc biệt là trong xã hội cũ với những lễ giáo đầy nghiêm khắc. Nhưng nếu đặt trong hoàn cảnh thực tế của Kiều lúc bấy giờ ta dễ dàng có thể hiểu hành động tưởng chừng như vô lý ấy, bởi Kiều đang trong cảnh cậy nhờ, đang là người chịu ơn em gái mình. Kiều đã hạ mình xuống, đặt bản thân ở vị trí thấp hơn để bày tỏ tấm lòng tha thiết của mình, đồng thời cũng mong Vân có thể chuẩn bị tâm lý để đón nhận việc hệ trọng mà Kiều sắp nói:

 “Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Mối duyên với chàng Kim, Kiều từng ngỡ sẽ lâu bền, hạnh phúc, nào ngờ “đứt gánh”. “Gánh tương tư” sâu nặng đành ngậm ngùi bỏ dở trên con đường hạnh phúc lứa đôi. “Giữa đường đứt gánh”- cụm từ mang sắc thái chia phôi được tác giả đặt đầu câu càng nhấn mạnh nỗi đau, sự chua xót tột cùng của Kiều, còn điều gì đau đớn hơn khi mối tình được keo loan chắp mối mới vừa chớm hạnh phúc lại chịu cảnh chia lìa đôi ngả. Kiều thương chính mình một, đau xót cho Kim Trọng mười thì càng day dứt khi buộc phải để Vân chắp “mối tơ thừa” của mình. Hai từ “mặc em” được tác giả sử dụng thật tinh tế như một sự giao phó trách nhiệm của Kiều dành cho Vân trong niềm tin tưởng tuyệt đối, ngoài Vân ra, chẳng ai có thể giúp Kiều, chẳng ai đủ tin tưởng để Kiều có thể phó thác, cậy nhờ lúc này cả.

"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề"
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"

Điệp từ “khi” được sử dụng làm sống lại những kỉ niệm tình yêu đầy đẹp đẽ theo dòng kí ức của Kiều khi tâm sự với em. Đó là đêm thề nguyền thiêng liêng, Kiều cùng Kim hẹn ước như định duyên trăm năm. Đó là kể từ ngày gặp chàng Kim, Kiều có được hạnh phúc đầy yêu thương. Nhưng sự đời không lường trước, “sóng gió” đến với gia đình khiến Kiều không còn sự lựa chọn nào tốt hơn là trọn đạo làm con. Đứng giữa “hiếu”- “tình” - “duyên”- “nghĩa” Kiều muốn tất cả đều được vẹn tròn nên cần có em san sẻ, giúp đỡ. Cha và em trở về bình an, gia đình tạm yên ổn, giờ Kiều không thể đến được với Kim, Kiều khổ đau ra sao cũng tự mình chịu đựng, nhưng nàng không đành lòng để Kim phải lở dở trong tình cảnh “đứt gánh” nên mong Vân thay mình viết thay chữ “tình”dang dở.

"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non

Để thuyết phục em, Kiều tiếp tục đã đưa ra những lí lẽ đầy thấu đáo. Về lý, cả Kiều và Vân đều mang phận làm con, đều có trách nhiệm trả nghĩa cho cha mẹ. Hơn thế nữa, “ngày xuân” của Vân vẫn “còn dài”, Vân còn có tuổi trẻ, có nhan sắc, có tự do, có thời gian để có cơ hội thấu hiểu, rút ngắn khoảng cách với Kim Trọng. Mặt khác, Vân và Kiều còn là chị em ruột thịt, phận chung máu mủ nào Vân nào có thể không động lòng, thương cảm trước nỗi đau đớn của chị mình.

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"

Thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” được sử dụng đầy khéo léo để thể hiện sự cam lòng của Kiều trước tình cảm của Vân khi chấp nhận lời nhờ cậy đồng thời cũng là một dự cảm về tương lai mịt mù của Kiều. Được Vân chấp thuận, Kiều bớt đi phần nào nỗi băn khoăn, mặc cảm tội lỗi với chàng Kim, bởi vậy mà dẫu có ở chốn suối vàng vẫn mỉm cười thanh thản. Lời lẽ của Kiều như một di nguyện cuối đời khiến Vân không khỏi không lay động tâm can, xúc động với nỗi niềm của chị để cùng san sẻ mà gánh vác trách nhiệm.

Mười hai câu thơ đầu đoạn Trao duyên đã mở ra nhiều cảm xúc trong lòng mỗi người đọc. Qua từng lời thơ, ta càng cảm phục tấm chân tình của Kiều, một người con gái hết mực yêu gia đình và trân trọng người mình yêu. Ta càng xót xa, thương cảm cho nỗi bi kịch mà Kiều phải gánh chịu khi đang tuổi xuân thì. Ta cũng càng yêu mến thêm hồn thơ Nguyễn Du với ngòi bút đầy tài năng và tấm lòng rộng mở, nhạy cảm trước những số phận bất hạnh, bi thương trong xã hội. Đoạn thơ khép lại còn gửi gắm đến người đọc một quan niệm đẹp trong tình yêu: “Yêu không phải chỉ vì mình mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu”.

thuyhang nguyenthi
Hình như bạn lạc đề rồi
1
0
Toxic
19/08/2021 15:55:05
+3đ tặng

Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thuý Kiều trích trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thuý Kiều, Thuý Vân - hai tuyệt thế giai nhân với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.

Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân”, là con đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại. “Hai ả tố nga” là hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mai (một loài hoa đẹp và quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc tâm hồn hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại có một nét đẹp riêng “mỗi người một vẻ”.

Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cái đẹp, Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ.

Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thuý Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, cách đi đứng... rất trang trọng quý phái. Cách ứng xử thì đoan trang. Mày nở nang, thanh tú như mày con bướm tằm. Gương mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói trong như ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết phái “nhường”. Cách miêu tả đặc sắc, biến hoá. Sử dụng ẩn dụ, nhân hoá tài tình:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.
Dùng thủ pháp so sánh, nhân hoá:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung ả tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy quý mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thuý Vân.

Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thuý Kiều. Nguyễn Du tả Thuý Vân trước, tả Thuý Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thuý Vân, dùng đến 12 câu tả Thuý Kiều. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều không chỉ đẹp mà còn giàu tài năng. Vẻ đẹp của Kiều là ‘“sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Kiều là tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn có người thứ hai nào đó bằng Kiều: “tài đành hoạ hai”. Nguyễn Du dùng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hoá thậm xưng để ca ngợi và miêu tả nhan sắc Thuý Kiều:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Môi hồng má thắm làm cho hoa ghen nước da trắng xinh làm cho liễu phải “hờn”. Vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.

Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời” nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các môn nghệ thuật như thi, hoạ, ca ngâm chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, “ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm..
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn hồ cầm; tiếng đàn của nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một “thiên bạc mệnh “nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hờn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân - tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:

Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.

Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga: Tuy là khách hồng quần đẹp thế, tài thế, lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần “cập kê” nhưng “hai ả tố nga” đã và đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm “x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phu âm”c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui.,êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.

Đoạn thơ nói về Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hoá được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư