Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Lí Bạch (những nét chính về tiểu sử, con người, đặc điểm thơ Lí Bạch…)
- Giới thiệu chung về bài thơ “Tĩnh dạ tứ” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1. Hai câu thơ đầu
- Cảnh đêm trăng:
+ Không gian: “sàng” – đầu giường, đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, ánh trăng được cảm nhận rất gần so với vị trí của tác giả
+ So sánh: ánh trăng – sương trên mặt đất, gợi nên hình ảnh một đêm trăng rất sáng, ánh trăng bồng bềnh như cõi tiên
+ “Rọi”: ánh trăng tìm đên thi nhân như tri âm, tri kỉ giản dị mà đầy bất ngờ
⇒ Khung cảnh rất thi vị, lãng mạn, đêm trăng huyền ảo, đẹp như ở chốn bồng lai
- Tâm trạng của nhà thơ: “nghi” – ngỡ
+ Tâm trạng ngạc nhiên, bất ngờ
+ Cảm giác vừa say, vừa tỉnh, nửa thực nửa ảo
+ Sự băn khoăn, trăn trở, chứa đầy ưu tư
⇒ Hai câu thơ đầu vừa tả cảnh vừa tả tình. Đó là một đêm trăng đẹp huyền ảo với tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng của nhà thơ
2. Hai câu còn lại
- “Vọng”: gồm có hai nét nghĩa:
+ Nhìn từ xa
+ Ngóng trông
- Ngẩng đầu: xuất hiện như một hành động tất yếu của nhà thơ để kiểm nghiệm ánh trăng đó là thật hay ảo ở hai câu thơ trên
⇒ Tác giả nhìn ra xa để ngắm vầng trăng với tư thế hướng ngoại
- Cúi đầu: đây không phải là cái cúi đầu để ngắm nhìn ánh trăng hay nhìn sương, mà là cái cúi đầu của nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nghĩ về quê xa
- Tâm trạng nhà thơ được thể hiện trực tiếp: “tư cố hương”
- Nghệ thuật: đối cấu trúc ngữ pháp và đối từ loại
⇒ Tâm trạng nhớ cố hương da diết của tác giả được thể hiện qua cử chỉ, hành động, cảm xúc. Xúc cảm ấy được dồn nén và thể hiện rõ trong câu thơ cuối cùng.
III. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: miêu tả đêm trăng đẹp và nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả
+ Nghệ thuật: ngôn ngữ giản dị mà tinh luyện, đối, kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm
- Cảm nhận của bản thân: Bài thơ thể hiện rõ phong cách thơ của Lí Bạch
Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Nhắc tới ông, người đọc thường nhớ đến những vần thơ trữ tình bay bổng có vẻ đẹp lạ kì. Có thể nói, thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Thuở nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng cho rõ. Vì thế hình ảnh Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi đã in sâu vào tâm khảm nhà thơ, trở thành một trong những biểu tượng của quê hương Tứ Xuyên mà nhà thơ thương nhớ suốt cuộc đời.
Từ tuổi 25, Lí Bạch đã xa quê và xa mãi, nhưng hình bóng quê hương luôn in đậm trong tâm khảm của ông. Vì thế mà trên bước đường lữ thứ tha phương, mỗi lần ngắm trăng sáng là ông lại chạnh lòng nhớ quê và chỉ biết gửi gắm tâm sự vào những vần thơ. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Lí Bạch sáng tác trong một hoàn cảnh như vậy.
Nguyên văn chữ Hán:
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch thơ:
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Chủ đề của bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương). Đây là chủ đề quen thuộc trong thơ cổ, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở Việt Nam, song cách thể hiện của Lí Bạch thật độc đáo.
Với những từ ngữ đơn giản mà chắt lọc, bài thơ đã thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương của nhà thơ.
Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được. Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng – người bạn không lời nhưng gắn bó thân thiết với ông và được ông coi là tri âm, tri kỉ.
Kể từ độ cất bước ra đi, suốt mấy chục năm trường, Lí Bạch làm sao nhớ nổi bao nhiêu lần mình ngắm trăng?! Trăng lung linh rải ánh vàng, ánh bạc trên sông hồ. Trăng buồn tê tái nơi quan ải. Trăng nhạt nhòa, huyền ảo trên mặt đất mênh mông… Đã có lần, thi sĩ uống rượu dưới trăng: Cất chén mời trăng sáng, Ta với bóng lạ ba. Đêm nay, trên đất khách, ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, như muốn chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
(Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương).
Đây là bài thơ tứ tuyệt tương đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện.
Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận.
Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu).
Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rớm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |