Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Chép nguyên văn khổ thơ cuối của bài Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Cho biết nghệ thuật đặc sắc của khổ thơ đó

10 trả lời
Hỏi chi tiết
11.483
55
20
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:05:33
Câu 1

Mai về miền nam, thương trào nước mắt
Mai về miền nam,nhớ Bác không nguôi
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Khổ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên làng Bác

Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cậy tre khách thể đã hòa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
21
14
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:15:07
Câu 2
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là “vẫn còn” và “vơi dần” ,tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay gắt, chói chan cùng cơn mưa ào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng: “thu sang” và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng câu đừng tuổi.”
“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây cũng được xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” – tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay chua chát của cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cỏi nước nhà.
Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng như yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này !
16
9
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:18:59
Câu 3
Bài thơ Viếng lăng Bác sáng tác 1976, một năm sau khi đất nước thống nhất, lăng bác được xây dựng xong và đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước ra viếng Bác. Viễn Phương là 1 trong những thế hệ đồng bào miền Nam đầu tiên được ra Hà Nội viếng thăm Người. Bài thơ Viếng lăng Bác là 1 bài thơ hay nhờ xây dựng được những hình ảnh tiêu biểu đặc sắc “ Mặt trời, Vầng trăng, Tràng hoa”. Những hình ảnh này góp phần quan trọng trong việc biểu hiện tình cảm, cảm xúc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ làm nổi bật nội dung tư tưởng tác phẩm.
Nhà thơ xây dựng hình ảnh ấy trong khổ thơ thứ 2 và 3:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng thầm kính, lòng biết ơn và xen lẫn nỗi đau xót khi tác giả vào lăng viếng Bác. Cảm xúc đó được thể hiện theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác sau nỗi niềm xúc động :“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.Trước lăng Người, nhà thơ cảm nhận hình ảnh lăng Bác với tất cả niềm thành kính:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Với hình ảnh Mặt trời, nhà thơ vừa sử dụng biện pháp nhân hoá “mặt trời đi qua”( ở câu thứ nhất) vừa sử dụng biện pháp ẩn dụ “thấy”(ở câu thứ 2). Với phép ẩn dụ bằng việc ngầm so sánh hình ảnh Bác Hồ với hình ảnh Mặt trời, nhà thơ đã nói lên công ơn trời biển của Bác đối với dân tộc. Nếu mặt trời tự nhiên mang ánh sáng, sự ấm áp đến cho vũ trụ thì hình ảnh Bác mang đến cho dân tộc nền tự do, độc lập. Ý thơ đồng thời ngợi ca sự vĩ đại của Người, thể hiện lòng thành kính với vị cha già. Hơn thế nữa với phép nhân hoá, nhà thơ gợi 1 sự liên tưởng rất táo bạo. Mặt trời của tự nhiên cũng phải kính cẩn ngắm nhìn mặt trời của dân tộc- chủ tịch Hồ Chí Minh. Và như thế cũng có thể hiểu mặt trời trong lăng còn vĩ đại hơn mặt trời vẫn ngày ngày đi trên bầu trời cao rộng. Dưới ánh mặt trời, ngày ngày vẫn nối nhau những dòng người đi trong thương nhớ vào lăng viếng Bác. Dòng người đi trong thương nhớ là thực “ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” lại là 1 liên tưởng đẹp và rất sáng tạo thể hiện sâu sắc những tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhân dân đối với Bác. Dòng người vào lăng viếng Bác đến từ nhiều vùng miền, nhiều dân tộc. Mỗi người mang 1 bông hoa của lòng thành kính, yêu thương. Cả dòng người kết thành tràng hoa rực rỡ huy hoàng. Hình ảnh tràng hoa đã trở thành hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng, cho sự kính yêu, niềm ngưỡng vọng lãnh tụ. Bước vào trong lăng, nhà thơ càng bồi hồi xúc động trước hình ảnh:
“ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Hình ảnh mặt trời rực rỡ trong lăng được thay bằng một liên tưởng ẩn dụ vầng trăng sáng dịu hiền. Sự thay đổi ấy thể hiện rất nhiều ý nghĩa, Bác không chỉ là 1 người chiến sĩ Cách mạng mà còn là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc . Hình ảnh vầng trăng còn gợi ta nhớ đến những bài thơ tràn ngập ánh trăng của Người.
Có thể nói 3 hình ảnh thơ “ tràng hoa, vầng trăng, mặt trời” là những hình ảnh ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ, hàm xúc đã thể hiện cảm động tấm lòng thành kính thiêng liêng và niềm xúc động vô bờ của tác giả, của toàn dân tộc dành cho Bác kính yêu. Đó đồng thời cũng là những hình ảnh thơ đẹp nhất, giàu sức gợi cảm nhất trong thi phẩm đáng trân trọng này.
14
5
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:20:45
Câu 4
Tình cha con qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, được nhà văn Nguyễn Quang Sáng khắc họa thành công nhân vật bé Thu thật ấn tượng và tinh tế, nổi bật hơn là tình cảm cha con hết sức sâu nặng, thiêng liêng và cao đẹp dù là trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh khắc nghiệt.
Câu chuyện kể về ông Sáu , người chiến sĩ xa nhà sau 8 năm mới có dịp về quê thăm con. Bé Thu không nhận ra cha nó vì vết sẹo trên mặt làm ông không giống với bức hình chụp với má mà nó đã từng biết đến, vì thế nó đối xử với ông như một người xa lạ và hết sức lạnh lùng. Đến khi nó nhận ra ông Sáu là ba, khi tình cảm cha con như bỗng nổi dậy trong người nó thì đó cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở căn cứ, nhớ đến lời hứa với con, ông Sáu đã dồn hết tình yêu thương, và sự mong nhớ con vào chiếc lược ngà mà ông đã tỉ mỉ làm miệt mài từng cái răng cho cây lược ngà chỉ có một hàng răng thưa, hay gò lưng, tẩn mẩn với từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” trên sống lược để tặng cho con gái bé bổng của mình. Nhưng không may, trong một trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy, ông Sáu đã hy sinh. Trước khi nhắm mắt, ông chỉ còn kịp trao chiếc lược ngà cho người bạn thân bác Ba nhân vật kể chuyện.
Bé Thu, hình tượng nhân vật trọng tâm trong câu chuyện, được tác giả khắc họa một cách cực nhạy bén và tinh tế. Thu là một cô bé rất cá tính, bướng bỉnh và gan góc, nhưng lại giàu tình cảm. Thái độ của nó trái ngược hoàn toàn với những ngày đầu khi ông Sáu trở về thăm nhà và lúc ông Sáu sắp ra đi, song trái ngược mà vẫn nhất quán. Có lẽ chỉ vì quá yêu ba, quá khát khao được có ba nên khi nhận định đó không phải là ba của mình thì nó nhất định không chịu nhận ông Sáu, nhất định không chịu gọi ông Sáu một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nó cứng đầu thế đấy, bởi lẽ trong tâm trí của nó chỉ có duy nhất hình ảnh người cha trong tấm ảnh mà nó vẫn thường thấy mỗi ngày, chứ không phải bộ dạng của ông Sáu bây giờ. Người cha không được đứa con nhìn nhận bởi vết sẹo trên má làm mặt ông bị biến dạng và khác trước quá nhiều… Chính vết sẹo ấy là dấu tích không mong muốn của chiến tranh tàn khốc mà Thu thì còn quá nhỏ để có thể cảm nhận và hiểu được điều đó, hiểu được sự khốc liệt của bom lửa đạn, hiểu được cái cay xé của mùi thuốc súng, hiểu được sự gian nan, vất vả trong cảnh chiến tranh khắc nghiệt mà người lính phải trải qua… Nhưng cũng chính từ sự kiên định, thẳng thắn, bản lĩnh và lập trường vững chắc đó đã phần nào thể hiện được hình ảnh một cô gái giao liên dũng cảm sau này.
Tác giả tỏ ra am hiểu tâm lý trẻ con, với tất cả sự trân trọng và yêu mến rất thiêng liêng, rất đẹp đẽ dành cho những tâm tư, tình cảm vô giá ấy. Bé Thu, một cô bé mạnh mẽ, bướng bỉnh, nhưng dù sao thì nó vẫn là một đứa trẻ 8 tuổi với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ và đáng yêu. Khi nó bị ông Sáu đánh vì cái tính ngang ngạnh, thật ngạc nhiên vì nó đã “cầm đũa, gấp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”, dường như nó sợ ông Sáu sẽ thấy được những giọt nước mắt trong chính tâm tư của nó. “Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”, trong một loạt hành động đó, dường như có điểm đối lập giữa một bên là sự già dặn và cứng cỏi, nhưng với một khía cạnh khác, nó lại muốn được yêu thương, vỗ về. Từ đó, rõ ràng cho ta thấy được cái tính cố chấp rất hồn nhiên, rất trẻ con của nó đã được khắc họa một cách rất thực và gần gũi qua nhiều chi tiết.
Và rồi đến lúc nó nhận ra ông Sáu là cha, nhận ra được cái lỗi của chính mình, thì thật khó để người khác có thể phủ nhận rằng nó là một cô bé giàu tình cảm. Có ai ngờ được một đứa trẻ phải xa cha mình từ lúc chưa đầy một tuổi, rồi 8 năm ròng rã trôi qua vô tình, thế mà nó vẫn luôn vun đắp, ấp ủ một tình yêu mãnh liệt đến bất tận dành cho người cha thân yêu của nó. Tình yêu đó đã đánh bại được thời gian, đánh bại luôn cả khoảng cách giữa cha và con mà khoảng thời gian ấy đã tạo nên. Tình yêu thương dành cho cha của một đứa bé chỉ mới 8 tuổi mà lại dạt dào và sắc nét đến thế ! Dẫu rằng người cha thân thương mà nó vẫn hằn mong chưa hề mang đến cho nó sự nâng niu, săn sóc, hay một bàn tay rộng ấm áp tình thương đến bên ân cần và che chở cho nó. Chỉ những điều đơn giản thế thôi mà ông Sáu vẫn chưa hề làm được, thì mơ gì đến việc ông làm cho nó một món đồ chơi, kể cho nó nghe một câu chuyện, hay tâm sự và sẻ chia với nó những niềm vui, nỗi buồn từ khi nó đến với thế giới này, tất cả đều quá xa vời với nó. Nó dường như không có một kỷ niệm hay một chút ấn tượng gì về cha của nó, nhưng chắc hẳn, đã không ít lần nó tự tưởng tượng ra hình ảnh người cha của nó là một người tài giỏi như thế nào, cao lớn và có một vòng tay rộng lớn, ấm áp để ôm nó vào lòng ra sao. Tình yêu mãnh liệt của nó đã ngăn không cho nó nhận người đàn ông lạ trên mặt có vết sẹo như thế kia. Mãi đến ngày ông Sáu phải lên đường, thì đứa bé bướng bỉnh và cứng cỏi của ngày hôm qua “như bị bỏ rơi”, “lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó” dường như đó là lúc nó thèm muốn cái tình cảm ấm áp của gia đình, nó muốn ông Sáu nhận ra sự hiện diện của nó trong lúc ấy, nó muốn chạy lại hôn ba nó lắm, nhưng chẳng hiểu sao lại có một cái gì đó ngăn nó lại và làm cho nó cứ mãi đứng yên. Đến phút chia tay, ông Sáu mới nhìn sang và chào nó với một giọng khe khẽ “Thôi ! Ba đi nghe con !” thật lạ, sao chỉ là một lời chào vẻn vẹn trong bốn từ thế kia ? sao ông không dặn dò hay nhắn nhủ đến nói một điều gì? có lẽ nào sự phũ phàng mà nó dành cho ông Sáu, đã làm cho ông thất vọng và tổn thương lắm nên mới như vậy ? Rồi đến khi tiếng kêu của nó thét lên “Ba… a… a… ba!”, “tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. Đến lúc ấy, mọi người mới nhận ra rằng, nó thèm muốn được gọi tiếng “ba” đến nhường nào. Tiếng “ba” mà nó đã cất lên trong nghẹn ngào, tiếng “ba” mà nó đã đè nén sau bao nhiêu năm cách biệt, nghe mới thật thiêng liêng làm sao!. Đó là tiếng kêu như vỡ tung ra từ đáy lòng của nó, “nó vừa kêu vừa chạy xấn tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt cổ ba nó”, “nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hon vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Tất cả những điều đó đã thể hiện được một tình yêu mãnh liệt lên đến điểm cao trào nhất của đứa con dành cho ba nó, khiến mọi người xung quanh ai cũng không cầm được nước mắt trước cảnh tượng đầy xót xa ấy. Điều đó càng chứng tỏ được tình cảm của Thu dành cho ba thật sâu sắc. Nó chỉ bộc lộ tình yêu sâu sắc của mình với ba khi biết chắc đó là ba.
Bên cạnh hình ảnh bé Thu, hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương, đặc biệt là tình cảm yêu thương con đến tha thiết. Tình cảm ấy được biểu hiện phần nào trong chuyến về quê thăm nhà. Khi xuồng chưa kịp cập bến, trông thấy con ông đã vội vàng “nhảy lên bờ, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: “ba đây con ! ba đây con.” Cứ ngỡ rằng bé Thu sẽ chạy ào tới, ôm lấy cổ ba cho thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không, ông hụt hẫng, bất ngờ khi thấy: “bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy ”. Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách gần gũi, vỗ về con, mong con gọi một tiếng ba mà không được. Có lúc giận quá ông đã đánh con. Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu đã khiến ông cảm động “một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt ”, những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! Đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ông được nghe tiếng ba thân thương từ cô con gái nhỏ, bởi vì sau đó, chẳng bao giờ ông có thể trở về được nữa! Trong những ngày ở khu căn cứ, ông ân hận vì đã trót đánh con. Nhớ mãi lời con dặn: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với ông thì đó là mơ ước đầu tiên và cũng là duy nhất, nên nó cứ mãi thôi thúc trong lòng ông. Lúc tìm được một khúc ngà, ông đã vui mừng “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Ngày qua ngày, ông cặm cụi “cưa từng răng lược, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Những lúc nhớ con ông lại mang cây lược ra mài lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt, tuy rằng chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông lúc này. Ông đã nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời. Có lẽ những lúc ấy ông mong có một lần về phép thăm nhà để tự tay mình cầm cây lược chải tóc cho con. Đau đớn thay chiến tranh khiến ông chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái được nữa. Ông bị hy sinh trong một trận càn lớn, nhưng “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, ông cầm cây lược trao cho người bạn thân với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời. Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành kỷ vật, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích, làm nhà nhà li tán, người người xa nhau vĩnh viễn. Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng, Chủ đề của chuyện không mới lạ, nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cha con trong những tình huống éo le và cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể, tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc đặc biệt là tâm lý trẻ thơ, hơn nữa lãi có giọng văn dung di, cảm động đã giúp truyện có được vị trí riêng trong lòng độc giả .
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vì thế mà ta càng quí cuộc sống thanh bình của ngày hôm này, quí tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng mãi sống ích kỷ, chỉ biết nhận tình cảm thương yêu từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Nếu bạn còn cha, và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này !
8
9
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:22:38
Câu 5
Lê Minh Khuê là nhà văn thành công trong truyện ngắn. Chị tham gia viết văn từ những năm 1970 và có nhiều sáng tác về cuộc sống, chiến đấu của thanh niên xung phong và bộ đội. “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là truyện ngắn viết năm 1971 lúc nhà văn 22 tuổi. Truyện viết về cuộc sống chiến đấu vô cùng gian khổ của tổ trinh sát mặt đường, trên con đường chiến lược Trường Sơn thời chống Mĩ cứu nước.
Trong truyện ngắn này, Phương Định là người kể chuyện và cũng là nhân vật chính. Chọn vai kể như vậy vừa phù hợp với nội dung truyện lại vừa tiện cho tác giả biểu hiện nội tâm một cách thuận lợi. Truyện viết về đề tài chiến tranh tất nhiên là nói về bom đạn, chiến đấu, hi sinh, gian khổ nhưng những giây phút bình yên là nơi trú chân cho những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật làm nên vẻ đẹp tâm hồn của con người, nhất là người phụ nữ chiến tranh. Truyện “Những ngôi sao xa xôi” nổi bật lên với ba gương mặt nữ thanh niên xung phong: Nho, Phương Định, chị Thao. Họ ở trong một hang sâu dưới chân cao điểm. Ở đó, máy bay giặc Mĩ đánh phá dữ dội. Đường bị đánh “lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn”. Tưởng như sự sống bị hủy diệt: “Không có lá xanh” hai bên đường, “thân cây bị tước khô cháy”, có biết bao thương tích vì bom đạn giặc: những cây rễ nằm lăn lóc, ngổn ngang những hòn đá to, một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất.
Công việc của họ vô cùng gian khổ và nguy hiểm. Hàng ngày họ phải thay nhau đứng trên cao điểm đếm bom rơi rồi lao vào trọng điểm sau mỗi trận bom để đo khối lượng đất và đá phải san lấp, đánh dấu và phá những quả bom chưa nổ. Họ bị bom vùi luôn. Thần chết “lẩn trong ruột những quả bom”. Thần kinh căng như chão. Trong lúc đơn vị thanh niên xung phong thường “ra đường vào lúc mặt trời lặn, và làm việc có khi suốt đêm thì tổ trinh sát lại “chạy trên cao điểm cả ban ngày” dưới cái nóng trên 30 độ. Từ trên cao điểm về hang, cô nào cũng chỉ thấy “hai con mắt lấp lánh", “hàm răng lóa lên” khi cười, khuôn mặt thì “lom luốc”. Họ là những cô gái trẻ yêu đời, dễ rung cảm, nhiều ước mơ, rất dễ vui mà cũng dễ trẩm tư. Họ rất thích cái đẹp và thích làm đẹp cho cuộc sống, từ sở thích của mỗi người khác nhau. Nho thích thêu thùa, có ước mơ sau chiến tranh xin vào làm thợ điện và trở thành một cầu thủ bóng chuyền nhà máy. Chị Thao lớn tuổi hơn Phương Định và Nho. Từng trải hơn, không còn hồn nhiên như hai đồng đội, ước mơ và dự tính của chị về tương lai thiết thực hơn nhưng cũng không thiếu những phần khát khao rung động của tuổi trẻ. Chị dũng cảm, gan dạ trong chiến đấu nhưng sợ nhìn thấy máu chảy.
Cả ba cô, cô nào cũng đáng mến, đáng cảm phục. Nhưng Phương Định là cô gái để lại ân tượng sâu sắc. Phương Định là người con gái rất nhạy cảm, hồn nhiên và thích thơ mộng; cô thường sống với những ki niệm nơi thành phố quê hương mình. Phương Định có một thời học sinh, hồn nhiên, sống vô tư với mẹ, cô có một căn phòng nhỏ trên gác hai ô một ngõ phố yên tĩnh và thanh bình tại Hà Nội. Và giờ đây trong những ngày căng thẳng ở chiến trường, cuộc sống đó đã trở thành kỉ niệm của cô. Những kỉ niệm đó vừa thể hiện khát khao cuộc sống nơi quê hương vừa là liều thuốc động viên tinh thần Phương Định nơi tuyến lửa khốc liệt. Sống nơi chiến trường đã ba năm, luôn kề bên cái chết nhưng cô vẫn thể hiện sư hồn nhiên và mơ mộng, ở chiến trường, Phương Định nổi bật giữa các cô gái khác với “hai bím tóc, tương đôi mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”. Đôi mắt Phương Định được cánh lái xe bảo là “có cái nhìn sao mà xa xảm”. Nhiều pháo thủ và lái xe “hỏi thăm” và “viết những bức thư dài gửi đường dây” cho Phương Định. Cô có vẻ kiêu kì, làm “điệu khi tiếp xúc với một anh bộ đội “nói giỏi” nào đấy, nhưng trong suy nghĩ của cô thì “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Cô biết mình được nhiều người, nhất là các anh lính trẻ, chú ý và có thiện cảm. Nhưng cô không biểu lộ tình cảm của mình và tỏ ra kín đáo giữa đám đông.
Phương Định là một cô gái rất hồn nhiên yêu đời, giàu cá tính. Thuở nhỏ hay hát. Cô có thể ngồi lên thành cửa sổ căn phòng nhỏ bé của nhà mình “hát say sưa ầm ĩ”. Bàn học lúc nào cũng “bày bừa bãi lên”, để đến nỗi bà mẹ phải “nguyền rủa”: “Con gái gì của mày. Lấy chồng rồi mà no đòn... No đòn... !” Vì thế ngay từ lúc ở nhà, cô đã thề “không lấy chồng”.
Sống trong cảnh bom đạn ác liệt, cái chết kề bên, Định lại càng hay hát. Những bài hành khúc, những điệu dân ca Quan họ, bài ca Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô, bài dân ca Ý... Phương Định còn bịa ra cả những lời hát, thế mà chị Thao vẫn “say mê” chép vào sổ tay. Phương Định hát trong khoảng khắc “im lặng” khi máy bay trinh sát. “rò rè”, cơn bão lửa sắp ụp xuống cao điểm. Định hát để động viên chị Nho, chị Thao, động viên mình. Hát khi “máy bay rít, bom nổ; nổ trên cao điểm, cách cái hang này khoảng 30m”. Hát trong không khí ngột ngạt: “Khói lên và cửa hang bị che lấp”. Đúng là “tiếng hát át tiếng bom” của những người con gái trong trinh sát mặt đường, những con người “khao khát làm nên những sự tích anh hùng”.
Là cô gái hồn nhiên, yêu đời và nhí nhảnh, Phương Định còn có một tâm hồn nhạy cảm biểu hiện ở chỗ chỉ một cơn mưa đá vụt qua là những kỉ niệm về thành phố quê hương về gia đình, tuổi thơ... lại được thức dậy trong cô. Đoạn hồi tưởng của Phương Định về tuổi học trò thể hiện tính cách hồn nhiên, vô tư pha một chút tinh nghịch và mơ mộng của người con gái Hà Nội. Nhưng tâm lí của Phương Định thể hiện rõ nhất, tinh tế nhất khi cô phá bom. Một mình phá một quả bom trên đồi. Cảnh tượng chiến trường “vắng lặng đến phát sợ”. Cảnh vật bị hủy diệt, khói đạn vật vờ từng cụm trong không trung: Phương Định dũng cảm và bình tĩnh tiến đến gần quả bom, đàng hoàng mà bước tới”. Quả bom có hai vòng tròn màu vàng nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Thần chết đang chờ đợi họ. Vỏ quả bom nóng. Định dùng lưỡi xẻng đào đất, có lúc lưỡi xẻng đụng vào quả bom. Có lúc Định “rùng mình” vì cảm thấy tại sao mình lại chậm thế. Hai mươi phút đã trôi qua. Tiếng còi chị Thao rúc lên. Phương Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống những lỗ đã đào, châm ngòi vào dây mìn. cô khỏa đất rồi chạy nhanh về chỗ nấp... tiếng còi chị Thao lại thổi lên. Quả bom nổ. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo, ngực đau nhói, đôi mắt, cạy mãi mới mở ra được. Mồ hôi thấm vào môi, cát lạo xạo trong miệng. Nguy hiểm, căng thẳng không thể nào kể xiết. Chị Thao vấp ngã, vết sẹo bóng lên, mảng dù bay trên lưng, chị cười “răng trắng, đôi mắt mở to...”. Nho bị thương. Bom nổ, hầm sập, chị Thao và Định phải moi đất, bế Nho lên. Máu túa ra, ngấm vào đất. Chị Thao nghẹn ngào. Định rửa vết thương cho Nho, tiêm thuốc cho Nho, pha sữa cho Nho... Rồi chị Thao lại giục: “Hát đi, Phương Định, mày thích bài gì nhất, hát đi!.... Đó là cuộc chiến đấu thường nhật của họ.
Mỗi ngày, tổ trinh sát mặt đường phá bom đến năm lần; ngày nào ít cũng ba lần. Phương Định cho biết: “Tôi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể...”.
Đoạn văn tả cảnh phá bom trên cao điểm là đoạn văn xuất sắc nhất trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Những cảm giác tinh tế được miêu tả qua đoạn văn không chỉ là sự nhạy cảm vốn có mà còn là sự tích ý kinh nghiệm sau nhiều lần phá bom"ở tuyến lửa.
Rõ ràng ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả tâm lí của nhân vật rất sinh động và rất thực. Một thế giới nội hàm phong phú, đa dạng và rất trong sáng của nhân vật được hiện lên như nó vốn có. Cách nhìn, cách thể hiện những vẻ đẹp của con người trên tuyến đầu Tổ quốc theo khuynh hướng sử thi ấy chính là vũ khí góp phần động viên toàn dân tham gia kháng chiến. Mặc dù vậy, truyện ngắn của Lê Minh Khuê không rập khuôn, đơn giản; ngược lại rất chân thực, hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối.
Truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm sống lại cuộc sống và chiến đấu của những cô thanh niên xung phong ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn trong giai đoạn chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Những hình ảnh cao đẹp của các cô thanh niên xung phong trong truyện tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, trong những năm tháng hào hùng của Tổ quốc. Truyện thể hiện thành công về cách kể chuyện, và đặc biệt là nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật.
Chiến tranh đã đi qua, sau ba mươi năm đọc lại truyện “Những ngôi sao xa xôi”, ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước. Những "ngôi sao Hôm” “sao Mai” như chị Thao, như Nho, như Phương Định gần xa vẫn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ, bịết ơn.
6
5
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:24:44
Câu 6
Tiếng lòng thể hịên tình yêu cụôc sống và khát vọng được cống hiến cho đời của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ". Phân tích nội dung sau để làm rõ nội dung trên: "Ta làm con chim hót ... Dù là tuổi hai mươi, Dù là khi tóc bạc"
“Mùa xuân…Mùa xuân, một mùa xuân nho nhỏ…Lặng lẽ dâng cho đời…” điệp khúc ấy được ngân lên dạt dào biết bao trái tim của những người đang cảm nhận,những người đang sống và làm việc đâu đó trên mảnh đất này. Và phải chăng đó là nguồn cảm hứng lớn của nhà thơ Thanh Hải với tình yêu quê hương, yêu cuộc sống và muốn một lần nữa được dâng hiến cho đời.
Tình yêu quê hương đất nước và muốn được dâng hiến cho đời mình của tác giả Thanh Hải được thể hiện rõ nhất trong ba khổ cuối của bài thơ
Trong không khí tưng bừng của đất trời mùa xuân, nhà thơ đã cảm nhận được một mùa xuân tươi trẻ, rạo rực trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người, của đất trời
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Điêp từ ta làm diễn tả một cách rõ nét của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm một con chim, một nhành hoa để dâng tiếng hót của mình cho đời, để tỏa hương thơm ngào ngạt cho sắc xuân. Từ khát vọng được hòa nhập đó nhà thơ đã thể hiện rõ khát vọng cống hiến mình ở những câu thơ tiếp theo :
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Mùa xuân nho nhỏ là cách nói đầy ẩn dụ và đầy sức sáng tạo của nhà thơ. Mỗi người có thể góp một chút sức mình vào đó , dâng hiến là một hành động cho đi mà không đòi hỏi sự đáp lai. Cho dù là trai trẻ hay tóc đã bạc thì điều này vốn không quan trọng bởi khi đã muốn dâng hiến cho cuộc đời, cho quê hương đất nước thì không quan trọng tuổi tác
Giữa một mùa thu của cuộc đời mình, tác giả đã liên tưởng đến một mùa xuân tươi đẹp để tô điểm cho cuộc đời với những lời thơ bình dị,trong sáng không hề có một chút u ám của cuộc đời. Không chỉ hay về ý thơ mà còn hay ca ngôn từ, cả nhịp điệu trong bài. Cảm ơn nhà thơ đã mang đến cho người đọc về một bài học,về một lí tưởng sống thực sự cao đẹp biết bao.”sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
​Đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó tả khó phai mờ và mãi trường tồn cùng đất nước, gợi nhắc cho thế hệ trẻ một cách sống đẹp, góp mùa xuân nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
13
4
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:26:27
Câu 7
“Mùa xuân nho nhỏ”. Trong cụm từ ấy, nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ. “Mùa xuân” được nhắc đến trong nhan đề này không chỉ là thời gian khởi đầu cho một năm; “Mùa xuân nho nhỏ” không chỉ là thời điểm mùa xuân năm 1980 với những hình ảnh đẹp đẽ, trẻ trung đầy sức sống nhà thơ cảm nhận được khi nhìn ra dòng Hương giang của xứ Huế mộng và thơ. “Mùa xuân nho nhỏ” còn là những đóng góp, những hiến dâng nhỏ bé, mộc mạc của Thanh Hải vào mùa sự nghiệp chung của đất nước. Từ láy "nho nhỏ" trong cụm từ "Mùa xuân nho nhỏ" gợi hình ảnh của những chồi non lộc biếc xinh xắn đầy thi vị. Và như thế, sự hiến dâng cuộc đời của nhà thơ cho cuộc đời chung trở nên thiêng liêng và ý nghĩa biết chừng nào.
12
5
Nguyễn Mai
10/05/2018 22:28:39
Câu 8
Nhà thơ Thanh Hải sinh năm 1930 mất năm 1980, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp rồi chống Mĩ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam thời kỳ đầu. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ra đời năm 1980 - năm năm sau khi đất nước ta thống nhất, cả nước đang say mê với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, đó là thời điểm nhà thơ bị bệnh nặng đang được điều trị tại bệnh viện, không lâu sau ngày bài thơ ra đời cũng là khoảnh khắc nhà thơ từ biệt cuộc sống. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của “con chim chiền chiện” để góp nên một “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương. Chính bởi vậy, từ xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời đến mùa xuân của mỗi con người trong mùa xuân lớn của đất nước; bài thơ thể hiện khát vọng được dâng hiến "Mùa xuân nho nhỏ" của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung.
2
3
Dương Tú
10/05/2018 22:41:43
8. Thanh Hải (1930 -1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống đất nước thiết tha và ước nguyện của tác giả. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một "mùa xuân nho nhỏ" của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa xuân chung lớn lao "một mùa xuân nho nhỏ". Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
3
2
Quỳnh Anh Đỗ
11/05/2018 15:43:29
C1:

“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”

Những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang là những nét vẽ tài hoa về nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào vì có một vị cha già kính yêu cả cuộc đời đã hiến dâng cho non sông đất nước. Tri ân người rất nhiều văn nghệ sĩ đã có những vần thơ đẹp ca ngợi Bác. Trong đó bài thơ Viếng lăng bác của Viễn Phương chính là tấm lòng thầm kính ngưỡng vọng là nén tâm hương mà nhà thơ ngưỡng vọng dâng lên Bác kính yêu. Bài thơ kết thúc với dòng cảm xúc:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác trong dịp tác giả đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ. Bài thơ thể hiện niềm xúc động chân thành, lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc và nỗi niềm thương nhớ Bác Hồ của nhà thơ khi được đến viếng lăng Bác. Đến khổ cuối của bài thơ Viễn Phương đã bộc lộc niềm lưu luyến tiếc thương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam.

Bác Hồ niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam, vầng dương tỏa sáng soi đường dẫn lối cho dân tộc. Người đã dành cả bảy chín mùa xuân cho tổ quốc cho dân tộc. Con người ấy đã làm nên trang sử vẻ vang cho đất nước. Nhưng Người đã để lại cho đời sự tiếc nuối, nỗi đau vô hạn “ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Sự ra đi của Người đã để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân tộc Việt Nam và cả bạn bè quốc tế. Nỗi đau ấy làm sao có thể bù đắp được cho dân tộc. Dù nỗi đau là vô tận, dù có xót xa đến mấy sự ly biệt là điều vẫn xảy ra. Bác nằm lại đó với “ vầng trăng dịu hiền”. Nhưng mỗi con người đất Việt khi đến thăm rồi bước chân quay về rời khỏi lăng Bác đều cảm thấy xót xa luyến tiếc. Lòng Viễn Phương cũng trào niềm thương cảm lớn lao:

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K