Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Em hiểu gì về nhân vật Robinxon

4 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
589
1
0
doan man
18/05/2019 08:36:38
Trong cuộc sống thường hay xảy ra những điều không như ý ta muốn. Trước những thử thách của cuộc đời, không ít người đã gục ngã hay phó mặc số mệnh, tuy nhiên, cũng có người biết vượt lên hoàn cảnh, sống lạc quan và giàu niềm tin, ý chí. Robinson- nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết Robinson Crusoe là một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan và ý chí, nghị lực của một con người phải sống cô độc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.
Bằng giọng dí dỏm, hài hước, tự giễu, mở đầu đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang”, nhân vật Robinson tự đưa ra lời cảm nhận chung về chân dung của chính mình. Anh hình dung đang đi dạo trên quê hương, đất nước mình. Hình dáng, bộ dạng kì lạ và tức cười của anh chắc chắn sẽ làm cho người đối diện phải ngạc nhiên đến mức sợ hãi: “Giá có người nào trông thấy tôi, nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!” Lời tự thuật ấy đã phần nào hé lộ cuộc sống thiếu thốn và khắc nghiệt nơi đảo hoang mà anh đã trải qua 10 năm qua.
Tiếp theo, chúng ta hãy cùng hình dung về trang phục và trang bị của một vị chúa đảo. Cái mũ to, cao lêu nghêu để che nắng, che không cho mưa hắt vào cổ. Cái áo làm bằng da dê, vạt áo dài đến bắp đùi. Quần được làm bằng da của một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân. Tất và giày đều không có nên anh tự tạo cho mình một đồ dùng giống như ủng. Những trang phục kì lạ, tiện dụng được tác giả miêu tả theo trình tự từ trên xuống dưới. Còn về trang bị? Đó là một cái thắt lưng rộng bản bằng da dê dùng để đeo cưa, rìu. Hai cái túi làm bằng da dê đựng thuốc súng, đạn ghém. Gùi được đeo sau lưng, khoác súng bên vai, dù trên đầu. Bằng việc kể đan xen với miêu tả, những vật dụng linh tinh hiện lên thật kì dị. Chúng chính là kết quả của quá trình lao động và sáng tao, của nghị lực và tinh thần vượt lên hoàn cảnh sống.
Một mình sống trên đảo hoang hơn chục năm, diện mạo của Robinson ít nhiều cũng sẽ có sự thay đổi và càng ngày càng ít giống người văn minh hơn. Vẫn là cái giọng điệu pha chút hài hước: “Mặt tôi rám nắng, đen sạm lại, tuy chưa đến nỗi như cột nhà cháy; râu tuy thỉnh thoảng có cạo, nhưng vẫn đâm ra như chổi xể. Trên mép, theo ý thích riêng, tôi lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ-nhĩ-kỳ vừa dài vừa rậm khác thường, tô đậm thêm nét cổ quái vào diện mạo của tôi”. Dáng vẻ của Robinson hẳn rất kì quái, gần như người rừng. Cuộc sống tuy vô cùng khó khăn, vất vả và nguy hiểm nhưng ta không hề thấy sự bi quan, tuyệt vọng hay chán nản ở Robinson. Bằng trí thông minh, sự khéo léo, đầu óc thực tế, tính cách kiên cường, anh đã dần vượt qua hoàn cảnh bất hạnh và làm chủ được cuộc sống. Tâm hồn anh ngời sáng lên vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, vui vẻ, ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, thiên nhiên cũng không thể khuất phục.
Bằng việc sáng tạo trong lựa chọn ngôi kể thứ nhất và nhân vật kể chuyện, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước, hấp dẫn, đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang” chính là bức chân dung về nhân vật Robinson khi anh gặp biến cố và phải sống cô đơn một mình trên đảo hoang hơn 10 năm. Từ đó, tác giả ca ngợi sức mạnh, đặc biệt là tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực của con người trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Ông cha ta đã từng nói: Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Có ở trong những hoàn cảnh gian nan, khó khăn, đặc biệt, chúng ta mới biết ý chí, nghị lực của mình mạnh mẽ tới đâu. Chỉ cần có ý chí, nghị lực, ta sẽ vượt qua được mọi thử thách của cuộc sống, tôi luyện bản thân trở nên mạnh mẽ, kiên cường như nhân vật Robinson đã làm.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nhok Phượng Núi
18/05/2019 08:56:10
Kể từ khi nghiên cứu về não bộ con người, khẳng định sự phát triển của thùy não trái và thùy não phải trong hơi hướng hành xử và lựa chọn nghề nghiệp, hình như người ta đã nghiễm nhiên cho rằng những người làm kinh doanh hay các công việc liên quan đến tài chính - tiền tệ thường hoạt động thùy não trái với óc logic phát triển thì không thể làm nghệ thuật, bộ môn yêu cầu cao về óc thẩm mĩ và đòi hỏi nhiều xúc cảm. Thế nhưng, nếu biết nhà văn Đe-ni-ơn Đi-phô đã từng lao vào thương trường với các mặt hàng vải vóc, mũ áo, rượu vang... hoàn toàn xuất phát từ ý thích của bản thân thì quan niệm ấy sẽ thay đổi. Cũng vì lẽ đó, khi viết tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nhân vật chính cùng tên đã được nhà văn lừng danh Walter Scott nhận xét: “Nhân vật này lập luận hệt như bất cứ một chủ tiệm buôn nào ở phố Sarinh Corx”. Song, dù mang nét tính cách và lập luận đặc trưng như thế nào, nhân vật ấy cũng để lại trong lòng ta ấn tượng vê' một con người thông minh, tài trí và lạc quan qua đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang.
Là nhà văn lớn của Anh thế kỉ XVIII, Đe-ni-ơn Đi-phô đến với tiểu thuyết khá muộn. Rô-bin-xơn Cru-xô với tư cách là tiểu thuyết đầu tay, đồng thời cũng nổi tiếng nhất của ông được hoàn thành khi ông năm mươi chín tuổi. Tác phẩm được viết dướt hình thức tự truyện. Rô-bin-xơn, tức Rô-bin- xơn Cru-xô xưng “tôi” tự kể chuyện của cuộc đời mình. Vào năm hai mươi bảy tuổi, nhân vật bị bão đắm tàu, một mình sống sót dạt vào hoang đảo không có dấu chân người. Năm năm mươi lăm tuổi, sau hai mươi tám năm hai tháng mười chín ngày một mình trên đảo hoang, Rô-bin-xơn mới trở vể được nước Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang kể chuyện lúc nhân vật đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng mười lăm năm.
Trải qua thời gian đằng đẵng ấy trên đảo hoang một mình, nhân vật “tôi” đã tưởng tượng: “Nếu có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi sẽ làm cho họ hoảng sỢ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng tôi lang thang khắp miên Y-oóc-sai với trang bị và áo quấn như vậy..Có thể nhận thấy rằng, không cần trở về nước Anh thì chính nhân vật cũng phá lên cười bởi bộ dạng kì quái của mình. Và dù cho đã ở trên hoang đảo một mình nhưng nỗi nhớ cuộc sống trước đây, đất nước Anh với những quy chuẩn vê' ăn mặc và tóc tai cũng như những nét đặc trưng bề ngoài khác chưa bao giờ mất đi trong con người Rô-bin-xơn Cru-xô. Đó không chỉ là niểm khao khát được trở về cuộc sống văn minh với đồng lọai mà còn là tình yêu, là động lực để nhân vật vượt qua những khó khăn, nguy hiểm trên hoang đảo.
Vẻ ngoài của mình được chính nhân vật miêu tả từ yếu tố trang phục. Đó là cái mũ: “to tướng, cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì”, chiếc áo có vạt “dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi” cho đến cái quẩn “loe đến đẩu gối”. Quanh người Rô-bin-xơn là “một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây củng bằng da dể để thay cho khóa”, lại thêm một đôi giày mà theo như nhân vật: “chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên...”. Tất cả trang phục của Rô-bin-xơn đều được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ từ trên xuống dưới, từ chất liệu đến công dụng. Trang phục của nhân vật được làm toàn bộ từ da dê. Mặc dù, nhân vật kể bằng một giọng hài hước, dí dỏm nhưng chính qua chất liệu ấy thôi ta đã thấy hiện thực tàn khốc, Rô-bin-xơn không còn lại dù chỉ một mảnh vải, điểu này phù hợp với thực tế quãng thời gian mười lăm năm trên đảo của nhân vật. Đổng thời, toàn bộ trang phục trên người Rô-bin-xơn có được đều phải trải qua quá trình săn bắt và “chế tạo” của bản thân, không có ai giúp đỡ.
Hiện thực khó khăn đó còn được khắc họa qua những trang bị của nhân vật. Hai bên thắt lưng nhân vật đeo “bên này một chiếc cưa nhỏ, bèn kia một chiếc rìu con". Ngoài ra còn có hai cái túi, “một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém”. Rô-bin-xơn đeo gùi sau lưng và khoác súng bên vai. Trên đẩu còn giương một chiếc ô lớn “xấu xí, vụng về” nhưng cần thiết. Những trang bị ấy là phương tiện lao động giúp cho nhân vật tổn tại. Mặc dù chúng lỉnh kỉnh và cổng kềnh nhưng rất hữu ích. Đó là kết quả của quá trình lao động miệt mài và sáng tạo vượt lên trên hoàn cảnh của nhân vật. Có thể nói, qua trang phục và trang bị của nhân vật, nhà văn đã thể hiện trí tuệ siêu đẳng của con người cũng như nghị lực vượt lên trong cuộc sống. Mặc dù xuất phát từ một câu chuyện có thực vê thủy thủ Xen-kiếc bị lạc vào đảo hoang Gioăng Phéc-nan-đéc. Sau bốn năm Xen-kiếc trở vê' với trạng thái hoang dã thì Rô-bin-xơn lại vẫn giữ được nếp sống văn minh. Đó là vẻ đẹp của nghị lực sống phi thường, một ý chí sắt đá, một bản lĩnh sống không gì khuất phục được.
Sau đó, Rô-bin-xơn lại tiếp tục đặc tả diện mạo của mình. Nước da “không đến nỗi đen cháy” dù nhân vật tự nhận rằng bản thân là một “kẻ chẳng quan tâm gì đến da dẻ” trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt tại một nơi có nhiệt độ rất cao, ở khoảng “chín hoặc mười độ vĩ tuyến miến xích đạo”. Rầu ria thì có lúc “dài đến hơn một gang tay” được cắt tỉa theo kiểu “Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”. Dù đã sống ở trên đảo hoang mười lăm năm, í! nhưng Rô-bin-xơn vẫn nhớ những nển văn hóa trước khi bị đắm tàu và vẫn biết rằng cặp ria của mình có “chiều dài và hình dáng kì quái” có khả năng kh¬iến cho mọi người phải khiếp sợ nếu ở Anh. Qua việc đặc tả diện mạo kì dị, khác thường bằng giọng hài hước, dí dỏm Đe-ni-ơn Đi-phô khắc họa cuộc sống gian nan và thiếu thốn trên đảo của nhân vật. Rô-bin-xơn không có gì, dù là những đổ vật thiết yếu nhất. Tẫt cả những gì nhân vật có chỉ là kéo, dao cạo và một ít thuốc súng vớt được từ ngày con tàu bị đắm. Sau mười lăm năm, có lẽ chúng cũng hỏng hóc ít nhiều nhưng khó khăn và thiếu thốn đó không khuất phục được anh. Đằng sau bủc chân dung nhân vật, ta cảm phục nghị lực phi thường, luôn chủ động vượt lên chống chọi lại những khó khăn của cuộc sống. Khẳng định sức mạnh của con người đích thực, khát vọng trở về, làm nên số phận của chính mình.
Vẻ đẹp ấy cũng giống như vẻ đẹp của Mai An Tiêm khi bị đày ra đảo hoang. Bằng sự chăm chỉ, chịu khó, trí thông minh và nghị lực sống kiên cường, Mai An Tiêm không chỉ sống sót trở vể mà con dâng lên đức vưa một loại quả ngọt lành, thơm mát. Kết quả ấy là kết tinh của ý chí con người. Dù là chuyện cổ tích Việt Nam thân thuộc từ thơ bé, hay câu chuyện tiểu thuyết từ nước Anh xa xôi, hai tác phẩm đểu là bài học quý báu vê' tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực vượt lên nghịch cảnh.
Nếu bị lạc trên hoang đảo, em sẽ nhớ đến thái độ sống kiên cường, lạc quan của Rô-bin-xơn cũng như Mai An Tiêm để khắc phục khó khăn, vượt lên gian nan và thiếu thốn, tìm cách trở vê' với cuộc sống văn minh, hiện đại. Thời gian sống trên đảo củng là thời gian rèn luyện những kĩ năng sống tự lập như nhân vật Rô-bin-xơn, thuần hóa đàn dê, gieo trồng lúa mạch để làm bánh.
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang có một nghệ thuật đặc sắc, hấp dẫn người đọc bằng lối kể kết hợp miêu tả và biểu cảm cùng với ngôi kể thứ nhất chân thực, giọng kể nhẹ nhàng, hóm hỉnh, khôi hài không chỉ tạo nên tiếng cười mà còn khắc sầu vẻ đẹp lạc quan của nhân vật.
Lịch sử từ lâu đã khẳng định vai trò của lao động đối với con người từ quá trình tiến hóa đến quá trình tổn tại và phát triển. Đoạc trích Ro-bin-xơn ngoài đảo hoang nói riêng và toàn bộ tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nói chung là tiếng hát, bài ca vê' giá trị của lao động chân chính, cần cù, chịu khó, tài trí và sáng tạo. Dù lưu lạc trên hoang đảo mười lăm năm hay gần ba mươi năm Rô-bin-xơn vẫn sống rất lạc quan, sống đúng với vị thế con người tiến bộ, văn minh. Đó là điếu mỗi chúng ta ngưỡng mộ và học hỏi.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
18/05/2019 11:07:25
Rô-bin-xơn là một chàng trai thích hoạt động, ưa phiêu lưu, say sưa đến những miền đất lạ, bất chấp sóng to, gió lớn và bao nỗi gian nan, nguy hiểm khác. Rô-bin-xơn xuống tàu ở Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Cuộc hành trình không gặp may mắn, con tàu bị đắm chìm ở Y-ac-mao. Thế nhưng, tai họa ấy không làm chàng nản lòng. Cha mẹ khóc lóc, bạn bò can ngăn vẫn không lay chuyển được quyết tâm của chàng – chàng làm quen với một viên thuyền trưởng tàu buôn; lần này rời bến ở Ghi-nê. Chuyến đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Chuyến thứ hai gặp cướp biển, Rô-bin-xơn bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê, hai năm sau trốn thoát sang Bra-xin lập trang trại trồng trọt. Chàng vẫn không hề nao núng; vài nằm sau nghe lời các bạn rủ rê, chàng xuống tàu đi Ghi-nê dự định thực hiện một chuyên buôn bán, trao đổi lớn. Nào ngờ, tàu gặp bão lớn, mất phương hướng rồi bị đánh đắm. Các thủy thủ trên tàu đều mạng vong. Ngoại trừ Rô-bin-xơn một mình sống sót trôi giạt vào một đảo hoang không có dấu chân người.
Trong trích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang, nhà văn kể chuyện Rô-bin-xơn ở trên đảo hoang vào khoảng từ năm thứ 9 đến năm thứ 15 (tính từ ngày bị đắm tàu).
Trước tiên, chúng ta thấy Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí và nghị lực phi thường. Sớm gặp hoàn cảnh bất hạnh nhưng anh không nản chí, tuyệt vọng. Mặc dù sống cô đơn, không bạn bè, không người thân, nhưng anh “không ngồi rỗi, bằng lòng với những thứ mình đã có”. Anh say sưa làm việc đến quên cả mệt mỏi, nhọc nhằn. Anh luôn luôn được hưởng “cái thú hoàn thành một kết quả lao động mà trước kia mình phải bó tay”, nhờ phương pháp và tư tưởng tích cực: “Không còn nghĩ ngợi vẩn vơ”. Tính siêng năng, tháo vát đã giúp anh ngày càng “lành nghề trong nhiều ngành thủ công”. Anh trở thành thợ nặn rất khéo; ngoài bát đĩa, chum vại, bình vò thường dùng để cất trữ mọi thứ lương ăn, anh còn nặn được một cái tẩu hút thuốc, một công trình tuyệt mĩ đối với anh và anh lấy làm thích thú. Anh cũng trở thành một tay đan giỏi. Anh dùng miên liễu – một loại cây nhỏ, cành mềm rủ xuống, đan nhiều đồ dùng như: thúng (để mỗi lần săn bắn được hoặc kiếm được thức ăn thì bỏ vào thúng quẩy về nhà); bồ đựng thóc,… Ngoài ra, anh còn nảy thêm sáng kiến khác: chăn nuôi. Anh cảm thấy cần phải nuôi dê để cải tạo bừa ăn vì nguồn thực phẩm ngày càng cạn kiệt. Anh tâm sự: “Trong khoảng một năm rưỡi, tôi đã có một đàn mười hai con dê vừa lớn vừa nhỏ. Hai năm sau, số dê lên tới bốn mươi ba con và tôi bắt đầu giết thịt để ăn. Tôi làm thêm tất cả năm chuồng nữa nhỏ hơn, mỗi chuồng có nhiều ngăn để lúc cần thì bắt dê cho tiện”. Dường như chưa bằng lòng với năng lực sáng tạo của chính mình, anh ngẫm nghĩ đến chuyện vắt sữa dê – dù anh “nghĩ đến hơi muộn”. Nghĩ là làm; anh bắt tay ngay vào công việc. Có ngày anh vắt được bảy tám chai sữa! Do đó, việc thừa sữa uống là rất bình thường. Nhưng chưa dừng lại ở đây, anh cố công “thử làm bơ và pho mát”. Thất bại là mẹ của thành công. Sau vài lần bị hỏng, anh đã được như ý. Giờ đây, bữa ăn của anh vừa dồi dào nguồn thực phẩm, vừa ngon, vừa có nguồn giá trị dinh dưỡng cao. Thế nên, anh thốt lên bằng niềm tự hào mãnh liệt: “Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bxa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát, tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn, không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.
Mặt khác, chúng ta thấy Rô-bin-xơn là một chàng trai có lòng yêu đời tha thiết. Phải là một con người ham sống mới tồn tại được ở một nơi cách biệt hoàn toàn với thế giới con người như thế. Một thân, một mình giữa nơi hoang đáo, anh vẫn muốn sống đàng hoàng, sống cho ra sống, sống một cách mạnh mẽ, đẹp đẽ, dũng cảm, sáng tạo, vượt lên trên mọi hiểm nguy, thiếu thốn. Như vậy, quan niệm “sống” của anh không chỉ có ý nghĩa về mặt sinh học mà còn có ý nghĩa sâu xa về mặt triết học (phần nhiều nghiêng về mặt triết học). Ngày lại ngày, anh lạc quan “chu du trong địa hạt của mình giống như một người đi dạo phố ở thời hiện đại”. Dù không có ai nhìn ngắm (ngoại trừ anh) nhưng anh vẫn cứ “diện” theo sở thích của mình. Anh mặc một bộ quần áo bằng da rất kì lạ, kì lạ đến nỗi giá có người nào trông thây “nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!”. Cái áo chẽn bằng da dê, “tà áo chấm ngang đầu gối”. Quần thì ngắn nhưng “rộng thùng thình, may bằng tấm da lông một con dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng xuống đên gần mắt cá, thành ra quần đùi mà cũng không khác quần dài”. Còn cái mũ cũng được làm bằng da dê “cao lêu đêu trông thật không ra cái hình thù gì”. Đã vậy, thắt lưng cũng làm bằng da lông. Riêng cái tư thế của anh chẳng khác nào một nhân vật trong truyện xưa đang phòng thủ: “Một cái cưa và một cái búa ở hai bên hông. Một sợi dây da vòng qua cổ sang phía tay trái, đeo lủng lẳng hai cái túi hình dáng lạ lùng, một cái túi đựng thuốc súng, một túi đựng đạn ghém. Sau lưng cõng một cái gùi, vai mang súng và trên đầu là cái dù xoè ra, bao che tất cả thân mình”. Bởi trang phục như vậy nên khuôn mặt của anh “rám nắng, đen sạm lại”, râu “đâm ra như cái chổi xể”, trên mép lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kì “vừa dài vừa rậm khác thường”. Rõ ràng, cách trang phục càng “tô đậm thêm nét cổ quái” vào diện mạo của anh – đúng như anh tự nhận xét là lệ bộ kì dị ấy đã khiến con chó người bạn thân của anh tỏ vẻ “kinh ngạc và khiếp sợ. Nó nghi nghi hoặc hoặc, chạy nép vào một góc nhà đứng nhìn ra, có ý dò xem cái con vật quái dị kia là bạn hay là thù”. Ấy vậy mà anh không hề cảm thấy đau khổ, tủi thân. Trái lại, anh kế cho chúng ta nghe bức chân dung tự họa của mình bằng giọng điệu vui tươi, pha lẫn những tiếng cười. Chẳng những thế, anh còn tự nhận mình là một vị “chúa đảo”. Có thể khẳng định rằng, giữa nơi hoang vu, vắng bóng dáng thân thương của con người, chất hoang dã đã nổi dậy lấn chiếm con người, hoang dã hóa con người nhưng chàng trai bất hạnh Rô-bin-xơn đã giành được chiến thắng, chiến thắng một cách vinh quang, vĩ đại, một chiến thắng mà đến 300 năm sau, trên hành tinh này chưa có người thứ hai đạt được.
Tóm lại, Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí, nghị lực phi thường và lòng yêu đời mãnh liệt, mãnh liệt ngay cả trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Chính những phẩm chất tốt đẹp của chàng đã khơi dậy trong tâm hồn thơ ngây, trong sáng của em một tình yêu, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống hiện tại; một ý chí sắt đá, một nghị lực thép trong học tập và rèn luyện đạo đức để mai này em không chỉ giúp ích được cho bản thân mình mà còn cho xã hội yêu thương.
0
0
(•‿•)
18/05/2019 12:00:57
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích chương 10 tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô cùa nhà văn Đi-phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô. Phiêu lưu và tự truyện là hai tính chất nổi bật của tác phẩm này. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cũng như toàn bộ cuốn tiểu thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cảm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên giữa một thiên nhiên hoang dã, ngoài hoang đảo!
Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa hoang vu. Trước mắt vẫn là những chặng đường đầy thử thách. Anh nói: “ Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phận của mình hơn một năm nữa’’. Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì kể lại những nếm trải cay đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bủa vây hoang đảo.
Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỷ. Cô đơn, thú dữ, bệnh tật, thiếu thốn. Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống. Vốn là một thanh niên ưa mạo hiểm, thích làm giàu, giờ đây hoàn cảnh khắc nghiệt đã rèn luyện anh trở thành một con người “lành nghề trong nhiều ngành thủ công". Anh làm việc không mệt mỏi để không còn thì giờ “nghĩ ngợi vẩn vơ". Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn tích cực. Nhờ thế, anh đã trở thành một thợ nặn rất khéo, năn được đủ thứ vật dụng, từ chum vại, bình vò đến bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái tẩu “tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liễu để đan lát. Đan thúng để quảy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ dùng khác nữa. Nói lao động là sáng tạo, lao động là phát triển năng khiếu thẩm mĩ của con người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.
Ở đời, những kẻ yếu hèn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi trẻ đã trôi qua. Thể lực và chí khí đã hao mòn. Chặng cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm! "Thuốc đắng cạn liều càng thấy đắng - Đường gay cuối chặng lại thêm gay” (Hồ Chí Minh). Đó là quy luật. Rô-bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: “ Thuốc đạn ngày càng khan, thực phẩm cũng vơi dần”. Bước sang năm thứ 11 ở trên đảo, anh đã bắt tay vào việc chăn nuôi, sau khi đã trồng lúa, trồng mạch thành công. Anh đã đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nuôi nấng, thuần dưỡng dê. Chỉ 2 năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn dần. Vừa giàu chí khí, vừa giàu sáng tạo và khéo chân tay, anh đã biết vắt sữa, làm bơ, làm pho mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nói về đời sống vật chất của mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn, với tất cả niềm vui ánh lên tự hào:
“ Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.
Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình - của con người - để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rô-bin- xơn là một kỳ công. Sữa tươi, pho mát, bơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300 năm nay trên trái đất vô cùng khâm phục anh - một con người bất hạnh mà vĩ đại.
Phần sau của chương 10 nói về “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo" khi đi chu du trong vương quốc của mình". Đây là bức chân dung tự họa rất hóm hỉnh giàu giá trị nhân bản, một điều rất thú vị là trên cái " vương quốc” hoang đảo này, chỉ có một vị “chúa đảo” là Rô-bin-xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của mình. Ta có thể đi theo vị “chúa đảo” mà chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rất kỳ lạ, có thể làm “kinh sợ” hay “bò ra mà cười” ai đó khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu đêu”. Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê “tà áo chấm ngang đầu gối” rất quý tộc; cái quần ngắn may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quần đùi mà không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da đê để giắt cưa và búa. Hai cái túi bằng da dê “hình dáng lạ lùng" để dựng đạn ghém và đựng thuốc súng, đeo lủng lẳng bằng một dây da vòng qua cổ. Đây là những nét miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống của con người nơi hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trở nên “cổ quái”, kỳ dị. Vì thế chàng trai Rô-bin-xơn càng ngày càng '‘ rám nắng, đen sạm lại". Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đâm ra tua tủa như chổi xể”. Trên mép là môt cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ “vừa dài vừa rậm khác thường”. Chó vốn là một vật nuôi vô cùng tinh khôn, Rô-bin-xơn có một con chó như một người bạn, một vệ sĩ rất trung thành với chủ, từng chia ngọt sẻ bùi với chủ, mà nay, có lúc nhìn “lệ bộ” da dê, râu ria của Rô-bin-xơn, nó có vè “kinh ngạc khiếp sợ”, nó “nghi nghi hoặc hoặc", sợ hãi, dò xét “cái con quái vật kỳ dị kia là bạn hay là thù’'. Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa con người. Phải có một sức mạnh to lớn lắm mói chế ngự và hạn chế sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên nơi hoang đảo.
Nhân vật "tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khẳc “thịnh soạn” đàng hoàng. Cái rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được một bài học: Dám sống và biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn Rô-bin-xơn ngoài hoang đảo là bài ca lao động sáng tạo hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm. Cái vĩ đại và đáng quý nhất ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×