Chúng ta tự hào bởi trải qua bao thăng trầm lịch sử, trải bao âm mưu thâm độc của giặc ngoại xâm muốn xóa Việt Nam khỏi bản đồ thế giới, đất nước ta vẫn hiên ngang vững vàng và nhân dân ta vẫn được nói tiếng mẹ đẻ thiêng liêng. Tự hào hơn nữa khi biết rằng tiếng Việt – ngôn ngữ ta sử dụng hàng ngày là một thứ tiếng giàu và đẹp.
Tiếng Yiệt giàu lắm. Về măt thanh điệu, có thể nói, tiếng Việt là thứ tiếng giàu thanh điệu bản nhất. Nếu tiếng Hán có bốn thanh, tiếng Nga, Anh, Pháp… chỉ có hai thanh thì với sáu thanh điệu, người nghe tiếng Việt như được thưởng thức những giai âm trong bản nhạc trầm bổng. Ngoài hai thanh bằng, âm bình (thanh huyền), phủ bình (thanh không), tiếng Việt còn có bốn thanh trắc: sắc, hỏi, ngã, nặng. Tiếng Việt chúng ta gồm có một hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú. Ta có thể liệt kê: 11 nguyên âm (a, ă, â, o,ô, ơ, u, ư, i, (y), ê, e), 3 căp nguyên âm đuôi (iê, uô, ươ) và các phụ âm (b, c ,k, q, k, m, n, r, s, t, v, p, h, th, kh, tr, ch, ng (h)…). Chính từ hệ thống nguyên âm và phụ âm vô cùng phong phú này, người Việt đã cấu tạo và sáng tạo ra một hệ thống từ vựng có đầy đủ khả năng diễn đạt suy nghĩ và tình cảm của mình, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp. Qua các thời kì, từ vựng tiếng Việt ngày càng được bổ sung, được tăng lên mỗi ngày một nhiều. Gần đây, những từ ngữ được được Việt hóa như: ma-két-ting, com-pu-tơ, in-tơ-nét… xuất hiện một cách phổ biến trong ngôn ngữ Việt. Đó chính là sự thích nghi sáng tạo, uyển chuyển để đáp ứng nhu cầu giao lưu và sự phát triển ngày càng cao của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa… Ngoài việc không ngừng đặt ra những từ ngữ mới, nhằm biểu thị những khái niệm mới, hình ảnh mới, cảm xúc mới, tiếng Việt còn không ngừng đặt ra những cách nói mới thể hiện sự linh hoạt trong cấu tạo ngữ pháp. Người đi đầu trong việc làm mới mẻ ngữ pháp tiếng Việt là nhà thơ Xuân Diệu với những câu thơ hết sức ấn tượng:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy cánh mỏng manh
(Đây mùa thu tới)
Điều đó không chỉ mang lại sự mới lạ độc đáo cho câu thơ mà còn góp phần thể hiện tài năng sáng tạo của nhà thơ. Với sự giàu có, dồi dào phong phú của hệ thống nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, sự linh hoạt và thích ứng một cách nhanh chóng của hệ thống từ vựng và cấu tạo ngữ pháp, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định: Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
Bên cạnh đó, tiếng Việt còn là một thứ tiếng đẹp. Tiếng Việt đẹp trước hết bởi nó giàu chất nhạc. Từ xa xưa, cha ông ta đã biết phối hợp một cách điêu luyện, nhuần nhuyễn và hài hòa các thanh điệu để tạo nên những câu ca dao trữ tình đằm thắm:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Hay để ca ngợi vẻ đẹp non sông đất nước:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Huế thì vô…
Tiếp thu và phát triển lên đến đỉnh cao thành tựu cửa văn học dân gian chính là nhà thơ Tố Hữu. Đọc những câu thơ lục bát mang đầy tính dân tộc của ông, chúng ta thấy âm vang trong lòng khúc nhạc của tình người ta thiết:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuốt đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng
(Việt Bắc)
Thi trung hữu nhạc, thi trung hữu họa (trong thơ có nhạc, troncg thơ có họa) không phải chỉ là đặc điểm của thơ ca Trung Hoa cổ điển mà còn là nét độc đáo của thơ ca Việt Nam từ xưa tới nay. Đó cũng chính là sự thể hiện cái đẹp của tiếng Việt. Chỉ với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm xúc, cô đọng, hình ảnh người nhạc sĩ, họa sĩ tài hoa Hồ Chí Minh đã hiện ra trên nền bức tranh – âm nhạc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(Cảnh khuya)
Dường như, chúng ta không chỉ nghe thấy tiếng nhạc của sáo tre, sáo trúc mà còn như đang được thưởng thức âm thanh trầm bổng từ mỗi từ, mỗi chữ của câu văn: Diều bay, diều lá tre bay lưng trời… sáo tre, sáo trúc vang lưng trời… Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông, hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre (Thép Mới).
Tiếng Việt đẹp bởi yêu cầu tự nhiên về sự hài hòa, cân xứng trong cấu tạo cú pháp: Ai bảo được non ngừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, Ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới biết được người mê luyến mùa xuân (Vũ Bằng).
Bằng biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cả cú pháp, câu văn trở nên uyển chuyển, duyên dáng mà vẫn không kém phần mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục.
Càng thấy được sự giàu đẹp của tiếng Việt, ta càng cảm thấy tự hào về thứ tiếng mẹ đẻ thân thương. Song, tự hào bao nhiêu, trách nhiệm của chúng ta trong việc phát triển, gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt càng nặng nề, to lớn bấy nhiêu. Không những thế, chúng ta còn phải có nghĩa vụ tôn vinh và giới thiệu tiếng Việt đối với bạn bè thế giới.