Đố vui tổng hợp Đố vui IQ Đố vui Tư duy Logic Gửi đố vui của bạn
Làng Nguyệt Úc có một người, Khai Xuyên tên cử, hiệu thì Hạnh Am, Đang làm tri huyện bỏ quan, Lục niên ẩn tích dạy đàn học sinh, Giúp mưu Nguyễn Huệ Bắc Bình, Đố ai biết được tiên sinh tên gì - Là ai?
Biết Tuốt | Chat Online | |
24/04/2016 16:48:13 |
3.725 lượt xem
Trả lời (1)
NoName.1969 | |
24/04/2016 16:49:49 |
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Thiếp (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804), là nhà Nho thâm thúy và là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Ông vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều tên tự hay tên hiệu, hoặc do ông tự đặt, hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn như: Khải Xuyên (có sách chép là Khải Chuyên), Hạnh Am, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên, Lam Hồng dị nhân, Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử,... Riêng Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) gọi ông là La Sơn phu tử, là La Sơn tiên sinh.
Thuỷ tổ của ông là người quê ở Cương Gián (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), lấy vợ lẽ, rồi lập chi họ Nguyễn ở xã Nguyệt Ao (hay Áo, còn gọi là Nguyệt Úc), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang (nay là xã Kim Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Và ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723), Nguyễn Thiếp đã ra đời tại nơi khác chứ không phải nơi đây, đó chính là Quảng Ninh.
Lúc nhỏ, ông và ba anh em trai nhờ mẹ chăm sóc và chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành rèn dạy nên đều học giỏi. Năm 19 tuổi (khi ấy Nguyễn Hành đang làm Hiến sát sứ Thái Nguyên), ông ra đó học, rồi được chú gửi cho bạn thân là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (cha của thi hào Nguyễn Du) dạy dỗ thêm. Tuy nhiên, chưa được một năm thì chú Nguyễn Hành đột ngột mất ở lỵ sở, Nguyễn Thiếp trở về nhà. Năm sau, ông dự thi Hương ở Nghệ An đỗ thủ khoa, nhưng không ở lại dự thi Hội mà đi ở ẩn.
Năm Mậu Thìn (1748), ông ra Bắc dự thi Hội, nhưng chỉ vào đến tam trường (kỳ 3). Sau đó ông vào Bố Chính dạy học.
Năm Bính Tuất (1756), lúc này đã 33 tuổi, Nguyễn Thiếp được bổ làm Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An).
Năm Mậu Tý (1768), ông xin từ quan về ở ẩn tại trại Bùi Phong trên dãy Thiên Nhẫn.
Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh, có sai người đưa thư và vàng lụa lên sơn trại mời ông ra giúp việc nhưng ông từ chối.
Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm, tướng Nguyễn Huệ lại gửi thư mời ông xuống hội kiến ở Lam Thành, lời thư rất tha thiết, nên ông đành xuống núi nhưng vẫn chưa chịu ra giúp.
Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân (Huế), vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc, đến Nghệ An nghỉ binh, nhà vua lại triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi kế sách đánh đuổi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Thiếp nói: "Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó". Lời tâu này rất hợp ý vua.
Sau đại thắng vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung về đến Nghệ An lại mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự.
Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước. Vì cảm thái độ chân tình ấy, nên lần này ông đã nhận lời (trước đó ông đã từ chối 3 lần). Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là "Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước); hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên".
Những lời tấu ấy được nhà vua nghe theo. Ngày 20 tháng 8 (1791), nhà vua ban chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.
Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp đành dở dang.
Năm Tân Dậu (1801), vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung) có mời ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Đang ở nơi ấy, thì kinh thành mất vào tay chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau là vua Gia Long). Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về.
Ngày 6 tháng 2 năm 1804 (Quý Hợi), danh sĩ Nguyễn Thiếp không bệnh mà mất, thọ 81 tuổi, và được an táng tại nơi ông ở ẩn.
Tác phẩm
Tác phẩm của Nguyễn Thiếp gồm có:
La Sơn tiên sinh thi tập: có hơn 100 bài, có tựa của tác giả (theo Phan Huy Chú). Trần Văn Giáp cho biết bản này hiện đã không còn tìm thấy, và theo ông thì nó còn có tên là Hạnh Am thi cảo. Trong cuốn La Sơn phu tử của GS. Hoàng Xuân Hãn có công bố quyển này (gồm 84 bài thơ chữ Hán, có phụ chép một số câu đối, thơ Nôm và các chiếu biểu, do một người vô danh sưu tầm được), và theo như giáo sư nói là "không chắc còn nguyên bản".
Hạnh Am di văn: gồm một số bài văn của Nguyễn Thiếp phúc đáp, cáo từ, trần tình, tạ ơn, v.v...gửi vua Quang Trung. Hiện bản này có trong Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu VHb. 212.
Ngoài ra, theo GS. Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), thì ông còn có: Hạnh Am ký (Ghi chép của Hạnh Am, 1782), Thích Hiên ký (Ghi chép ở Thích Hiên, 1786), bài viết đề ở gia phả, và đề tựa Thạch Động thi tập của Phạm Nguyễn Du...
Nhận xét
Nhà nghèo, mẹ già, con đông; nhưng ông không muốn ra làm quan để kiếm chút bổng lộc, mà chỉ thích ở ẩn. Tuy nhiên, đọc Hạnh Am thi thảo, bên cạnh những bài ca ngơi thú ẩn dật, vẫn thấy tấm lòng của ông gắn bó với đời, với quê hương, và than thở cho cảnh suy vi của thế thái nhân tình... Nhìn chung, thơ ông giản dị, mộc mạc, được Phan Huy Chú khen là "thơ đều tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thực là lời nói của người có đức, các tao nhân ngâm khách (khác) không thể sánh được" (Văn tịch chí).
Thông tin liên quan
Nền nhà Sùng chính Thư viện hiện còn lưu tại núi Bùi Phong với ngổn ngang gạch xây, đá ong... Di tích còn lại duy nhất là bức tường gạch có khoét hình nguyệt. Ở đó, có thể nhìn ngắm Lục Niên Thành (tòa thành của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống Minh) và đập Lục Niên xanh trong. Bên cạnh phế tích, là khu mộ của Nguyễn Thiếp và bà chính thất họ Đặng (song táng) đã được xếp hạng là "di tích cấp Quốc gia".
Sau ngày đỗ đại khoa (Tiến sỹ - 1898) Nguyễn Văn Trình có đến nhà thờ Nguyễn Thiếp (ở xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) cúng tặng câu đối:
六 年 夫 子 興 中 國
三 世 曾 孫 拜 外 家
Phiên âm:
Lục Niên phu tử hưng trung quốc
Tam thế tằng tôn bái ngoại gia
Phỏng dịch:
Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước
Cháu chắt ba đời kính bái ngoại gia.
Nguyễn Thiếp (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804), là nhà Nho thâm thúy và là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Ông vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều tên tự hay tên hiệu, hoặc do ông tự đặt, hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn như: Khải Xuyên (có sách chép là Khải Chuyên), Hạnh Am, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên, Lam Hồng dị nhân, Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử,... Riêng Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) gọi ông là La Sơn phu tử, là La Sơn tiên sinh.
Thuỷ tổ của ông là người quê ở Cương Gián (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), lấy vợ lẽ, rồi lập chi họ Nguyễn ở xã Nguyệt Ao (hay Áo, còn gọi là Nguyệt Úc), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang (nay là xã Kim Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Và ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723), Nguyễn Thiếp đã ra đời tại nơi khác chứ không phải nơi đây, đó chính là Quảng Ninh.
Lúc nhỏ, ông và ba anh em trai nhờ mẹ chăm sóc và chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành rèn dạy nên đều học giỏi. Năm 19 tuổi (khi ấy Nguyễn Hành đang làm Hiến sát sứ Thái Nguyên), ông ra đó học, rồi được chú gửi cho bạn thân là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (cha của thi hào Nguyễn Du) dạy dỗ thêm. Tuy nhiên, chưa được một năm thì chú Nguyễn Hành đột ngột mất ở lỵ sở, Nguyễn Thiếp trở về nhà. Năm sau, ông dự thi Hương ở Nghệ An đỗ thủ khoa, nhưng không ở lại dự thi Hội mà đi ở ẩn.
Năm Mậu Thìn (1748), ông ra Bắc dự thi Hội, nhưng chỉ vào đến tam trường (kỳ 3). Sau đó ông vào Bố Chính dạy học.
Năm Bính Tuất (1756), lúc này đã 33 tuổi, Nguyễn Thiếp được bổ làm Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An).
Năm Mậu Tý (1768), ông xin từ quan về ở ẩn tại trại Bùi Phong trên dãy Thiên Nhẫn.
Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh, có sai người đưa thư và vàng lụa lên sơn trại mời ông ra giúp việc nhưng ông từ chối.
Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm, tướng Nguyễn Huệ lại gửi thư mời ông xuống hội kiến ở Lam Thành, lời thư rất tha thiết, nên ông đành xuống núi nhưng vẫn chưa chịu ra giúp.
Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân (Huế), vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc, đến Nghệ An nghỉ binh, nhà vua lại triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi kế sách đánh đuổi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Thiếp nói: "Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó". Lời tâu này rất hợp ý vua.
Sau đại thắng vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung về đến Nghệ An lại mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự.
Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước. Vì cảm thái độ chân tình ấy, nên lần này ông đã nhận lời (trước đó ông đã từ chối 3 lần). Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là "Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước); hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên".
Những lời tấu ấy được nhà vua nghe theo. Ngày 20 tháng 8 (1791), nhà vua ban chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.
Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp đành dở dang.
Năm Tân Dậu (1801), vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung) có mời ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Đang ở nơi ấy, thì kinh thành mất vào tay chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau là vua Gia Long). Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về.
Ngày 6 tháng 2 năm 1804 (Quý Hợi), danh sĩ Nguyễn Thiếp không bệnh mà mất, thọ 81 tuổi, và được an táng tại nơi ông ở ẩn.
Tác phẩm
Tác phẩm của Nguyễn Thiếp gồm có:
La Sơn tiên sinh thi tập: có hơn 100 bài, có tựa của tác giả (theo Phan Huy Chú). Trần Văn Giáp cho biết bản này hiện đã không còn tìm thấy, và theo ông thì nó còn có tên là Hạnh Am thi cảo. Trong cuốn La Sơn phu tử của GS. Hoàng Xuân Hãn có công bố quyển này (gồm 84 bài thơ chữ Hán, có phụ chép một số câu đối, thơ Nôm và các chiếu biểu, do một người vô danh sưu tầm được), và theo như giáo sư nói là "không chắc còn nguyên bản".
Hạnh Am di văn: gồm một số bài văn của Nguyễn Thiếp phúc đáp, cáo từ, trần tình, tạ ơn, v.v...gửi vua Quang Trung. Hiện bản này có trong Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu VHb. 212.
Ngoài ra, theo GS. Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), thì ông còn có: Hạnh Am ký (Ghi chép của Hạnh Am, 1782), Thích Hiên ký (Ghi chép ở Thích Hiên, 1786), bài viết đề ở gia phả, và đề tựa Thạch Động thi tập của Phạm Nguyễn Du...
Nhận xét
Nhà nghèo, mẹ già, con đông; nhưng ông không muốn ra làm quan để kiếm chút bổng lộc, mà chỉ thích ở ẩn. Tuy nhiên, đọc Hạnh Am thi thảo, bên cạnh những bài ca ngơi thú ẩn dật, vẫn thấy tấm lòng của ông gắn bó với đời, với quê hương, và than thở cho cảnh suy vi của thế thái nhân tình... Nhìn chung, thơ ông giản dị, mộc mạc, được Phan Huy Chú khen là "thơ đều tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thực là lời nói của người có đức, các tao nhân ngâm khách (khác) không thể sánh được" (Văn tịch chí).
Thông tin liên quan
Nền nhà Sùng chính Thư viện hiện còn lưu tại núi Bùi Phong với ngổn ngang gạch xây, đá ong... Di tích còn lại duy nhất là bức tường gạch có khoét hình nguyệt. Ở đó, có thể nhìn ngắm Lục Niên Thành (tòa thành của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống Minh) và đập Lục Niên xanh trong. Bên cạnh phế tích, là khu mộ của Nguyễn Thiếp và bà chính thất họ Đặng (song táng) đã được xếp hạng là "di tích cấp Quốc gia".
Sau ngày đỗ đại khoa (Tiến sỹ - 1898) Nguyễn Văn Trình có đến nhà thờ Nguyễn Thiếp (ở xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) cúng tặng câu đối:
六 年 夫 子 興 中 國
三 世 曾 孫 拜 外 家
Phiên âm:
Lục Niên phu tử hưng trung quốc
Tam thế tằng tôn bái ngoại gia
Phỏng dịch:
Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước
Cháu chắt ba đời kính bái ngoại gia.
Tags: Làng Nguyệt Úc có một người,Khai Xuyên tên cử hiệu thì Hạnh Am,Đang làm tri huyện bỏ quan,Lục niên ẩn tích dạy đàn học sinh,Giúp mưu Nguyễn Huệ Bắc Bình,Đố ai biết được tiên sinh tên gì,câu đố về Nguyễn Thiếp,Nguyễn Thiếp,câu đố về nhân vật lịch sử
Đố vui khác:
- Một lòng giữ đúng chiếu vua, Tiền muôn bạc triệu cũng thua gan vàng, Giữ tròn liêm chính trung can, Phò vua giúp nước chiêu an trong ngoài - Là ai?
- Thân tôi vốn đất sinh ra, Về đây gặp lại chị em năm nào, Giờ thì tôi ở trên cao, Che mưa che nắng cho người sớm hôm - Là gì?
- Sừng sững mà đứng giữa trời, Giở vây, giơ cánh, suốt đời như không - Là gì?
- Vừa trắng như bông vừa nồng như rượu, Tính người khó chịu nóng quá Trương Phi, Khi hoà mềm nhũn chi chi, Đến khi xây dựng khác gì đá ong - Là gì?
- Nóng lạnh xem ra khéo chọn ghê, Tây, Tàu, Mỹ, Nhật chẳng hề chê, Không kể mưa rơi đêm tháng giá, Mặc cho đổ lửa những trưa hè - Là gì?
- Hỏi ai là tiểu anh hùng, Vua ban ngựa sắt, roi đồng tiến quân, Sau khi toàn thắng giặc Ân, Sóc Sơn rời bỏ cõi trần lên tiên - Là ai?
- Ông trạng nào mới mười hai tuổi, Bị cho về học hỏi ít năm, Sứ Tàu sau đó sang thăm, Lại ra đối đáp, khó khăn chẳng từ - Là ai?
- Người Hà Tĩnh, mặt đen như mực, Từng chiêu binh ra sức chống Tàu, Nghệ An chiếm được buổi đầu, Tấm gương trung dũng đời sau còn truyền - Là ai?
- Một võ tướng, một văn quan, Bị vây thà chết không hàng mới trung, Bình thuốc độc, ngọn lửa hồng, Thành xưa ghi dấu anh hùng còn đây - Là ai?
- Hỏi ai thề trước mặt vua, Đầu thần chưa rụng thì chưa nên hàng, Một lời quyết chiếu hô vang, Phá quân Mông Cổ chặn đường xâm lăng - Là ai?
Đố vui mới nhất:
- Con gì dài và cứng nhất?
- Cầu gì nguy hiểm nhất?
- Con gì đầu con chuột đuôi con lợn?
- Hành nào lớn nhất?
- Hãy dùng 5 que diêm để tạo thành 5 hình tam giác?
- Con gì bị nhốt trong lồng; Đập luôn thì sống, nằm không chết liền?
- Môn thể thao nào càng lùi thì càng thắng?
- Tôi có 4 cái chân, 1 cái lưng nhưng không có cơ thể. Tôi là ai?
- Con gì chăng lưới giữa trời, chuyên lo bắt muỗi, bắt ruồi giúp ta?
- Bàn gì có con sông?
Câu đố chữ | Câu đố về đồ dùng học tập | Câu đố về loài vật | Câu đố về loài chim | Câu đố về loài cá | Câu đố về đồ vật | Câu đố về đồ vật dụng gia đình | Câu đố nghề nghiệp | Câu đố về cây cối | Câu đố về hoa quả | Câu đố về các loại củ | Câu đố về các dòng sông | Câu đố về các ngọn núi | Câu đố về nhân vật lịch sử | Câu đố về sự vật hiện tượng tự nhiên | Câu đố về hiện tượng tự nhiên | Câu đố về các cây cầu | Câu đố địa danh | Câu đố về các loại đàn | Câu đố về các loại nhạc cụ | Đố vui IQ | Đố vui Tư duy logic | Tất cả câu đố ...
Bạn có câu đối vui, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu đố vui
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!