Trả lời / Bình luận (1)
NoName.147 | |
16/12/2015 07:27:59 |
Di Lặc là vị Bồ tát xuất hiện trên Trái Đất đạt được giác ngộ hoàn toàn, là vị Phật cuối cùng xuất hiện trên Trái Đất, là vị Phật kế thừa Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, chứng ngộ thành Phật, giảng dạy Phật Pháp và giáo hóa chúng sinh. Trong Phật giáo Tây Tạng, Di Lặc được thờ cúng rất rộng rãi.
Di-lặc hay Di Lặc (zh. 彌勒, sa. maitreya, pi. metteyya là cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (慈氏), "người có lòng từ", cũng có thuyết rằng Ngài có tên là Vô Năng Thắng (zh. 無能勝, sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa. Di Lặc là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên Trái Đất. Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Trong Phật giáo Trung Hoa, từ thế kỷ 10, hòa thượng Bố Đại được xem là hiện thân của Di Lặc.
Hình tượng Phật Di Lặc: hiền từ, vui tươi
Truyền thuyết và kinh điển
Theo truyền thuyết và kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên Trái Đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lặc sẽ là vị Phật kế thừa Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Bồ Tát Di-lặc được tiên tri sẽ giáng sinh trong kiếp giảm của tiểu kiếp kế tiếp, khi nhân thọ là 80.000 năm, tức khoảng 9 triệu năm nữa theo năm Trái Đất, khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên cõi Diêm phù đề. Sự tích về Phật Di Lặc được tìm thấy trong các tài liệu kinh điển của tất cả các tông phái Phật giáo (Nguyên thủy, Đại thừa, Kim cương thừa), và được chấp nhận bởi hầu hết các Phật tử như là một sự kiện sẽ diễn ra khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên Trái Đất, và Bồ Tát Di-lặc sẽ là bậc giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật lịch sử đã làm trong quá khứ.
Nếu năm đức Phật xuất hiện trên Trái Đất được xem là hóa thân của Ngũ Phật thì Bồ Tát Di-lặc được xem như hóa thân của Thành sở tác trí (xem Phật gia, Ngũ trí).
Tượng Di Lặc, Viện bảo tàng Patan, Kathmandu
Có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanātha (sa. Maitreya-nātha), thầy truyền giáo lí Duy thức cho Vô Trước (sa. asaṅga). Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:
1. Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (sa. mahāyānottaratantra)
2. Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharmadharmatāvibaṅga)
3. Trung biên phân biệt luận (sa. madhyāntavibhāga-śāstra)
4. Hiện quán trang nghiêm luận (sa. abhisamayālaṅkāra)
5. Đại thừa kinh trang nghiêm luận (sa. mahāyānasūtralaṅkāra)
Phật tương lai Di Lặc (ở giữa), Gandhara, thế kỷ thứ 3
Nguồn gốc
Tên Từ Thị (Maitreya trong tiếng Phạn, hay là Metteyya trong tiếng Pāli) xuất phát từ truyền thuyết: vì muốn giáo hóa các chúng sanh nên từ lúc mới phát tâm, Ngài đã không ăn thịt chúng sanh. Còn theo Đại Nhật Kinh Sớ, Từ Thị nghĩa là chủng tính từ bi, gồm hai chữ: Từ trong Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của Phật, Thị là chủng, họ, tộc, do lòng Từ đó sanh ra từ chủng tính Như Lai, có năng lực làm cho tất cả thế gian không đoạn dứt Phật chủng.
Còn theo phẩm Tùy Hỷ trong Kinh Pháp Hoa và Kinh Bình Đẳng Giác, Di-lặc chính là A-dật-đa (tiếng Phạn: Ajita, Hán dịch là Vô Thắng, Vô Năng Thắng hoặc Vô Tam Độc). Ngài là một vị đệ tử của Phật Thích-ca. Nhưng theo Kinh Thuyết Bản trong Trung A-hàm 13, Kinh Xuất Diệu 6 và Luận Đại Tỳ-bà-sa 178, Di-lặc và A-dật-đa là hai nhân vật khác nhau. Trong bài kệ tựa phẩm Bỉ Ngạn Đạo (Pàràyana) của Kinh Tập (Sutta - nipàta) thuộc Đại Tạng Kinh Pàli đều nêu cả hai tên A-dật-đa (Ajita) và Đế-tu Di-lặc (Tissametteyya), tức hoàn toàn cho đó là hai người khác nhau.
Từ Thị được đề cập sớm nhất ở Cakavatti (Sihanada) Sutta, Digha Nikaya 26 trong Kinh tạng Pali. Một số kinh Pali khác không có sự xuất hiện của Ngài, dẫn đến việc nghi ngờ tính xác thực của một số bài kinh. Hầu hết các bài giảng của Đức Phật được trình bày ở dạng hỏi đáp, trong đó, đức Phật giải đáp các thắc mắc của đệ tử, hoặc trong một số bối cảnh thích hợp khác. Nhưng kinh này có một khởi đầu và kết thúc, trong đó Đức Phật đang nói chuyện với các nhà sư về một cái gì đó hoàn toàn khác. Điều này dẫn Gombrich đến kết luận rằng một trong hai loại kinh là ngụy tạo, hoặc ít nhất bị giả mạo.
Hình tượng
Trong tranh hay tượng, Di-lặc ngồi trên mặt đất, biểu tượng sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh.
Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di-lặc cũng hay được trình bày với tướng mập tròn vui vẻ, trẻ con quấn quýt xung quanh. Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa thân của Di-lặc ở thế kỉ thứ 10.
Tượng Phật Di Lặc trên đỉnh núi Cấm, An Giang
Hình ảnh
Theo Phật giáo Nguyên thủy và Nam Tông
Bồ Tát Di Lặc, nghệ thuật Mathura, thế kỷ thứ 2
Di Lặc theo nghệ thuật Gandhara, thế kỷ thứ 2
Tượng đồng Di Lặc thế kỷ 9, nghệ thuật Srivijaya, từ Nam Sumatra, trang trí trên đỉnh 1 stupa
Phật Di Lặc khắc trong núi đá, cao 27 m, khoảng thế kỷ thứ 5, tại Bỉnh Linh tự (Bingling Temple), Vĩnh Tĩnh, Trung Quốc
Một bức tượng Phật Di Lặc trong tu viện Jamchen Lhakhang tại stupa Bouddhanath, Kathmandu, Nepal.
Tượng Di Lặc ngồi, nghệ thuật Hàn Quốc, thế kỷ 4-5. Hiện vật Bảo tàng Guimet.
Tượng đồng Bồ tát (được cho là Phật Di lặc) trầm ngâm, khoảng thế kỷ thứ 7. Hiện vật nằm trong danh sách quốc bảo của Hàn Quốc.
Tượng Phật Di Lặc tạc vào vách núi Lạc Sơn (Lạc Sơn Đại Phật) ở Trung Quốc, khởi xây vào năm 713
Bồ tát Di Lặc, nghệ thuật Tây Tạng, thế kỷ 18
Tại chùa Wat Intharawihan, quận Phra Nakhon, Bangkok, Thái Lan
Bức tượng Phật Di Lặc cao 32 mét (110 ft) ở thung lũng Nubra, Ladakh, bang Jammu và Kashmir, Ấn Độ
Tượng Di Lặc cao 33m mạ vàng tại chùa Beopju, Chungcheong Bắc, Hàn Quốc
Theo Bắc Tông và ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa
Hình tượng Di Lặc này là dựa theo tính cách của hòa thượng Bố Đại, được xem là một hiện thân của Di-lặc trong Phật giáo Trung Hoa, từ thế kỷ 10.
Nhà sư Bố Đại như là một hóa thân của Phật Di Lặc
Tượng Phật Di lặc khắc vào khoảng thế kỷ 11 trong hang núi của chùa Linh Ẩn Tự tại Hàng Châu, Chiết Giang.
Hiện vật thời nhà Minh, Hà Nam (Trung Quốc), khoảng năm 1486
Tượng Di Lặc tại núi Thiên Phật, Lịch Hạ, Tế Nam, Trung Quốc
Tại chùa Bắc Tự, Tô Châu
Tượng Di Lặc cao 57,6 m gần Bắc Phố, huyện Tân Trúc, Đài Loan
Tượng Phật Di Lặc (Bố Đại) tại Chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho.
Tượng Phật Di Lặc bằng đồng trên đỉnh núi thuộc chùa Bái Đính, Ninh Bình, Việt Nam.
Di-lặc hay Di Lặc (zh. 彌勒, sa. maitreya, pi. metteyya là cách phiên âm, dịch nghĩa là Từ Thị (慈氏), "người có lòng từ", cũng có thuyết rằng Ngài có tên là Vô Năng Thắng (zh. 無能勝, sa. ajita), phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa. Di Lặc là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên Trái Đất. Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Trong Phật giáo Trung Hoa, từ thế kỷ 10, hòa thượng Bố Đại được xem là hiện thân của Di Lặc.
Hình tượng Phật Di Lặc: hiền từ, vui tươi
Truyền thuyết và kinh điển
Theo truyền thuyết và kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên Trái Đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lặc sẽ là vị Phật kế thừa Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Bồ Tát Di-lặc được tiên tri sẽ giáng sinh trong kiếp giảm của tiểu kiếp kế tiếp, khi nhân thọ là 80.000 năm, tức khoảng 9 triệu năm nữa theo năm Trái Đất, khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên cõi Diêm phù đề. Sự tích về Phật Di Lặc được tìm thấy trong các tài liệu kinh điển của tất cả các tông phái Phật giáo (Nguyên thủy, Đại thừa, Kim cương thừa), và được chấp nhận bởi hầu hết các Phật tử như là một sự kiện sẽ diễn ra khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên Trái Đất, và Bồ Tát Di-lặc sẽ là bậc giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật lịch sử đã làm trong quá khứ.
Nếu năm đức Phật xuất hiện trên Trái Đất được xem là hóa thân của Ngũ Phật thì Bồ Tát Di-lặc được xem như hóa thân của Thành sở tác trí (xem Phật gia, Ngũ trí).
Tượng Di Lặc, Viện bảo tàng Patan, Kathmandu
Có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanātha (sa. Maitreya-nātha), thầy truyền giáo lí Duy thức cho Vô Trước (sa. asaṅga). Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:
1. Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (sa. mahāyānottaratantra)
2. Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharmadharmatāvibaṅga)
3. Trung biên phân biệt luận (sa. madhyāntavibhāga-śāstra)
4. Hiện quán trang nghiêm luận (sa. abhisamayālaṅkāra)
5. Đại thừa kinh trang nghiêm luận (sa. mahāyānasūtralaṅkāra)
Phật tương lai Di Lặc (ở giữa), Gandhara, thế kỷ thứ 3
Nguồn gốc
Tên Từ Thị (Maitreya trong tiếng Phạn, hay là Metteyya trong tiếng Pāli) xuất phát từ truyền thuyết: vì muốn giáo hóa các chúng sanh nên từ lúc mới phát tâm, Ngài đã không ăn thịt chúng sanh. Còn theo Đại Nhật Kinh Sớ, Từ Thị nghĩa là chủng tính từ bi, gồm hai chữ: Từ trong Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của Phật, Thị là chủng, họ, tộc, do lòng Từ đó sanh ra từ chủng tính Như Lai, có năng lực làm cho tất cả thế gian không đoạn dứt Phật chủng.
Còn theo phẩm Tùy Hỷ trong Kinh Pháp Hoa và Kinh Bình Đẳng Giác, Di-lặc chính là A-dật-đa (tiếng Phạn: Ajita, Hán dịch là Vô Thắng, Vô Năng Thắng hoặc Vô Tam Độc). Ngài là một vị đệ tử của Phật Thích-ca. Nhưng theo Kinh Thuyết Bản trong Trung A-hàm 13, Kinh Xuất Diệu 6 và Luận Đại Tỳ-bà-sa 178, Di-lặc và A-dật-đa là hai nhân vật khác nhau. Trong bài kệ tựa phẩm Bỉ Ngạn Đạo (Pàràyana) của Kinh Tập (Sutta - nipàta) thuộc Đại Tạng Kinh Pàli đều nêu cả hai tên A-dật-đa (Ajita) và Đế-tu Di-lặc (Tissametteyya), tức hoàn toàn cho đó là hai người khác nhau.
Từ Thị được đề cập sớm nhất ở Cakavatti (Sihanada) Sutta, Digha Nikaya 26 trong Kinh tạng Pali. Một số kinh Pali khác không có sự xuất hiện của Ngài, dẫn đến việc nghi ngờ tính xác thực của một số bài kinh. Hầu hết các bài giảng của Đức Phật được trình bày ở dạng hỏi đáp, trong đó, đức Phật giải đáp các thắc mắc của đệ tử, hoặc trong một số bối cảnh thích hợp khác. Nhưng kinh này có một khởi đầu và kết thúc, trong đó Đức Phật đang nói chuyện với các nhà sư về một cái gì đó hoàn toàn khác. Điều này dẫn Gombrich đến kết luận rằng một trong hai loại kinh là ngụy tạo, hoặc ít nhất bị giả mạo.
Hình tượng
Trong tranh hay tượng, Di-lặc ngồi trên mặt đất, biểu tượng sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh.
Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di-lặc cũng hay được trình bày với tướng mập tròn vui vẻ, trẻ con quấn quýt xung quanh. Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa thân của Di-lặc ở thế kỉ thứ 10.
Tượng Phật Di Lặc trên đỉnh núi Cấm, An Giang
Hình ảnh
Theo Phật giáo Nguyên thủy và Nam Tông
Bồ Tát Di Lặc, nghệ thuật Mathura, thế kỷ thứ 2
Di Lặc theo nghệ thuật Gandhara, thế kỷ thứ 2
Tượng đồng Di Lặc thế kỷ 9, nghệ thuật Srivijaya, từ Nam Sumatra, trang trí trên đỉnh 1 stupa
Phật Di Lặc khắc trong núi đá, cao 27 m, khoảng thế kỷ thứ 5, tại Bỉnh Linh tự (Bingling Temple), Vĩnh Tĩnh, Trung Quốc
Một bức tượng Phật Di Lặc trong tu viện Jamchen Lhakhang tại stupa Bouddhanath, Kathmandu, Nepal.
Tượng Di Lặc ngồi, nghệ thuật Hàn Quốc, thế kỷ 4-5. Hiện vật Bảo tàng Guimet.
Tượng đồng Bồ tát (được cho là Phật Di lặc) trầm ngâm, khoảng thế kỷ thứ 7. Hiện vật nằm trong danh sách quốc bảo của Hàn Quốc.
Tượng Phật Di Lặc tạc vào vách núi Lạc Sơn (Lạc Sơn Đại Phật) ở Trung Quốc, khởi xây vào năm 713
Bồ tát Di Lặc, nghệ thuật Tây Tạng, thế kỷ 18
Tại chùa Wat Intharawihan, quận Phra Nakhon, Bangkok, Thái Lan
Bức tượng Phật Di Lặc cao 32 mét (110 ft) ở thung lũng Nubra, Ladakh, bang Jammu và Kashmir, Ấn Độ
Tượng Di Lặc cao 33m mạ vàng tại chùa Beopju, Chungcheong Bắc, Hàn Quốc
Theo Bắc Tông và ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa
Hình tượng Di Lặc này là dựa theo tính cách của hòa thượng Bố Đại, được xem là một hiện thân của Di-lặc trong Phật giáo Trung Hoa, từ thế kỷ 10.
Nhà sư Bố Đại như là một hóa thân của Phật Di Lặc
Tượng Phật Di lặc khắc vào khoảng thế kỷ 11 trong hang núi của chùa Linh Ẩn Tự tại Hàng Châu, Chiết Giang.
Hiện vật thời nhà Minh, Hà Nam (Trung Quốc), khoảng năm 1486
Tượng Di Lặc tại núi Thiên Phật, Lịch Hạ, Tế Nam, Trung Quốc
Tại chùa Bắc Tự, Tô Châu
Tượng Di Lặc cao 57,6 m gần Bắc Phố, huyện Tân Trúc, Đài Loan
Tượng Phật Di Lặc (Bố Đại) tại Chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho.
Tượng Phật Di Lặc bằng đồng trên đỉnh núi thuộc chùa Bái Đính, Ninh Bình, Việt Nam.
Tags: Di-lặc,Di Lặc,Phật Di Lặc,Phật Di-Lặc,Từ Thị,Vô Năng Thắng,A-dật-đa,Di Lặc Bồ Tát,Bồ Tát Di Lặc
Câu hỏi mới nhất:
- Gapyear có ảnh hưởng đến việc xét vào Đại học không ạ?
- Bạn A đăng tải hình ảnh của bạn B lên mạng xã hội mà chưa được sự đồng ý của bạn B, hành vi của bạn A có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
- Làm thế nào để quên crush cũ?
- Tại sao cr lại cười mỗi khi ai đó nhắc tên tớ trước mặt cậu ấy?
- Cho con học trường quốc tế hệ General thì xét vào đại học bằng cách nào vậy mọi người?
- Mọi người cho em hỏi Học xong Foundation có được chuyển ngành không?
- Xin mọi người lời khuyên về người bạn thân trước kia
- Học lập trình có khó không? Học lập trình có cần giỏi toán không? Học lập trình nên bắt đầu từ đâu?
- Mình đang nói chuyện vs một bạn thì tự nhiên out rồi đăng nhập sai. Tài khoản vẫn còn nhưng đăng nhập sai ạ? Cho hỏi còn vào lại được không?
- Mọi người ơi mình bị như thế này, thì đây là khóa 24h hay là xóa acc vậy ạ. Phiền thì xl nha
- Xem tất cả câu hỏi >>
Câu hỏi khác:
Bạn có câu hỏi cần giải đáp, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu hỏi
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!