Hỏi đáp tổng hợp Gửi câu hỏi Gửi khảo sát
Tam tòng tứ đức là gì?
NoName.156 | |
17/12/2015 01:58:41 |
50.399 lượt xem
Trả lời / Bình luận (2)
NoName.171 | |
17/12/2015 02:01:17 |
Tam tòng, tứ đức là những quy định mang tính nghĩa vụ đối với phụ nữ phương Đông xuất phát từ các quan niệm của Nho giáo.
Tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử
Tạm dịch: Khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha anh, lấy chồng nghe theo chồng, chồng mất thì nghe theo con.
Người phụ nữ xưa luôn bị đứng sau dù ở mọi hoàn cảnh.
Tức Đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh
Tạm dịch :
Công việc phải khéo léo, dung mạo phải hòa nhã gọn gàng, lời nói phải dịu dàng mềm mỏng, tính nết hiền thảo nết na.
Xuất xứ
Những tài liệu đầu tiên nói về Tam tòng, Tứ đức
Đề cập sớm nhất về tam tòng chắc là sách "Lễ ký". Trong thiên "Giao đặc sinh" có chép: Phụ nữ là phải theo người, lúc nhỏ theo cha anh, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Cũng trong "Lễ ký", thiên "Hôn nghị" có chép: Ngày xưa, phụ nữ trước khi lấy chồng ba tháng, nếu tổ miếu chưa hư hỏng, thì ra đó mà ở, nếu tổ miếu đã hư hỏng thì vào nhà của tông tộc ở. Dạy cho phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công. Song tứ đức thời này nhìn chung chỉ thực hiện trong phụ nữ quý tộc, tam tòng chỉ là trạng thái sinh tồn của phụ nữ nhà lương gia chứ không phải là khuôn phép nghiêm ngặt đối với tất cả mọi người phụ nữ.
Tứ đức là một giáo lý gắn bó hữu cơ với tam tòng. "Phụ hành đệ tứ" một chương trong sách "Nữ giới" giải thích về Tứ đức trong "Lễ ký". "Nữ giới" là sách của Ban Chiêu thời Đông Hán. Ban Chiêu am hiểu kinh điển Nho gia, lại dạy dỗ hậu phi trong cung về phụ đức, kinh sử, vì thế hiểu rất rõ về những tấm gương phụ đức thời trước. Về đời tư, bà goá chồng rất sớm, nhiều năm thủ tiết. Với những kinh nghiệm và học vấn như vậy, bà đã viết "Nữ giới" để răn dạy các con gái. Bà không thể ngờ rằng "Nữ giới" lại trở thành quyển sách giáo khoa hàng đầu cho phụ nữ phong kiến hàng nghìn năm. Sách gồm bảy chương.
Tam tòng (三從) có nguồn gốc từ Nghi lễ, Tang phục, Tử Hạ truyện: Phụ nhân hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử (婦人有三從之義,無專用之道,故未嫁從父,既嫁從夫,夫死從子).
Tứ đức (四德) có nguồn gốc từ Chu lễ, Thiên quan trủng tể: Cửu tần chưởng phụ học chi pháp, dĩ cửu giáo ngự: phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công (九嬪掌婦學之法,以九教禦:婦德、婦言、婦容、婦功).
Về sau này, tam tòng, tứ đức thường được dùng để nói về bổn phận của phụ nữ trong gia đình, so với tam cương, ngũ thường là bổn phận ngoài xã hội, và bách hạnh là tiêu chuẩn đạo đức của nam giới thời Nho giáo.
Tam tòng
- Tại gia tòng phụ (在家從父): người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha.
- Xuất giá tòng phu (出嫁從夫): lúc lấy chồng phải nghe theo chồng.
- Phu tử tòng tử (夫死從子): nếu chồng qua đời phải theo con trai.
Quy định tam tòng khiến người phụ nữ khi xuất giá lấy chồng thì hoàn cảnh tốt hay xấu thế nào cũng đã trở thành người nhà chồng, chứ không được nương nhờ ai nữa.
Tuy nhiên vào giai đoạn sơ khai "Tam tòng" chỉ dùng để định vị trí của người phụ nữ trong gia đình khi làm nghi lễ. Khi ở nhà thì đứng sau lưng cha, lấy chồng đứng sau lưng chồng, chồng chết đứng sau lưng con
Tứ đức
Với người phụ nữ, tứ đức gồm phụ công (婦功), phụ dung (婦容), phụ ngôn (婦言) và phụ hạnh (婦行):
- Công: nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi họa.
- Dung: dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân
- Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng
- Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt.
Tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử
Tạm dịch: Khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha anh, lấy chồng nghe theo chồng, chồng mất thì nghe theo con.
Người phụ nữ xưa luôn bị đứng sau dù ở mọi hoàn cảnh.
Tức Đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh
Tạm dịch :
Công việc phải khéo léo, dung mạo phải hòa nhã gọn gàng, lời nói phải dịu dàng mềm mỏng, tính nết hiền thảo nết na.
Xuất xứ
Những tài liệu đầu tiên nói về Tam tòng, Tứ đức
Đề cập sớm nhất về tam tòng chắc là sách "Lễ ký". Trong thiên "Giao đặc sinh" có chép: Phụ nữ là phải theo người, lúc nhỏ theo cha anh, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Cũng trong "Lễ ký", thiên "Hôn nghị" có chép: Ngày xưa, phụ nữ trước khi lấy chồng ba tháng, nếu tổ miếu chưa hư hỏng, thì ra đó mà ở, nếu tổ miếu đã hư hỏng thì vào nhà của tông tộc ở. Dạy cho phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công. Song tứ đức thời này nhìn chung chỉ thực hiện trong phụ nữ quý tộc, tam tòng chỉ là trạng thái sinh tồn của phụ nữ nhà lương gia chứ không phải là khuôn phép nghiêm ngặt đối với tất cả mọi người phụ nữ.
Tứ đức là một giáo lý gắn bó hữu cơ với tam tòng. "Phụ hành đệ tứ" một chương trong sách "Nữ giới" giải thích về Tứ đức trong "Lễ ký". "Nữ giới" là sách của Ban Chiêu thời Đông Hán. Ban Chiêu am hiểu kinh điển Nho gia, lại dạy dỗ hậu phi trong cung về phụ đức, kinh sử, vì thế hiểu rất rõ về những tấm gương phụ đức thời trước. Về đời tư, bà goá chồng rất sớm, nhiều năm thủ tiết. Với những kinh nghiệm và học vấn như vậy, bà đã viết "Nữ giới" để răn dạy các con gái. Bà không thể ngờ rằng "Nữ giới" lại trở thành quyển sách giáo khoa hàng đầu cho phụ nữ phong kiến hàng nghìn năm. Sách gồm bảy chương.
Tam tòng (三從) có nguồn gốc từ Nghi lễ, Tang phục, Tử Hạ truyện: Phụ nhân hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử (婦人有三從之義,無專用之道,故未嫁從父,既嫁從夫,夫死從子).
Tứ đức (四德) có nguồn gốc từ Chu lễ, Thiên quan trủng tể: Cửu tần chưởng phụ học chi pháp, dĩ cửu giáo ngự: phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công (九嬪掌婦學之法,以九教禦:婦德、婦言、婦容、婦功).
Về sau này, tam tòng, tứ đức thường được dùng để nói về bổn phận của phụ nữ trong gia đình, so với tam cương, ngũ thường là bổn phận ngoài xã hội, và bách hạnh là tiêu chuẩn đạo đức của nam giới thời Nho giáo.
Tam tòng
- Tại gia tòng phụ (在家從父): người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha.
- Xuất giá tòng phu (出嫁從夫): lúc lấy chồng phải nghe theo chồng.
- Phu tử tòng tử (夫死從子): nếu chồng qua đời phải theo con trai.
Quy định tam tòng khiến người phụ nữ khi xuất giá lấy chồng thì hoàn cảnh tốt hay xấu thế nào cũng đã trở thành người nhà chồng, chứ không được nương nhờ ai nữa.
Tuy nhiên vào giai đoạn sơ khai "Tam tòng" chỉ dùng để định vị trí của người phụ nữ trong gia đình khi làm nghi lễ. Khi ở nhà thì đứng sau lưng cha, lấy chồng đứng sau lưng chồng, chồng chết đứng sau lưng con
Tứ đức
Với người phụ nữ, tứ đức gồm phụ công (婦功), phụ dung (婦容), phụ ngôn (婦言) và phụ hạnh (婦行):
- Công: nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi họa.
- Dung: dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân
- Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng
- Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt.
Ngọc Nguyễn | Chat Online | |
25/10/2019 08:25:46 |
==Tam tòng tứ đức là : những quy định mang tính nghĩa vụ đối với phụ nữ Phương Đông xuất phát từ các cơ quan niệm của Nho giáo.
--Tam tòng: là khi còn ở nhà chồng nghe theo chồng, chồng mất thì nghe theo con. Người phụ nữ xưa luôn bị đứng sau dù ở mọi hoàn cảnh.
--Tứ đức: người phụ nữ công việc phải khéo léo,dung mạo phải hòa nhã gọn gàng,lời nói dịu dàng mềm mỏng, tính nết hiền thảo nếp na.
Về sau này tam tòng, tứ đức thường dùng để nói về bổn phận của người phụ nữ trong gia đình so với tam cương, ngũ thường và bổn phận ngoài xã hội và bách hạnh là tiêu chuẩn đạo đức của nam giới thời Nho giáo
--Tam tòng: là khi còn ở nhà chồng nghe theo chồng, chồng mất thì nghe theo con. Người phụ nữ xưa luôn bị đứng sau dù ở mọi hoàn cảnh.
--Tứ đức: người phụ nữ công việc phải khéo léo,dung mạo phải hòa nhã gọn gàng,lời nói dịu dàng mềm mỏng, tính nết hiền thảo nếp na.
Về sau này tam tòng, tứ đức thường dùng để nói về bổn phận của người phụ nữ trong gia đình so với tam cương, ngũ thường và bổn phận ngoài xã hội và bách hạnh là tiêu chuẩn đạo đức của nam giới thời Nho giáo
Tags: Tam tòng tứ đức là gì,tam tòng tứ đức,tam tòng,tứ đức,tam tòng là gì,tứ đức là gì,tại gia tòng phụ,xuất giá tòng phu,phu tử tòng tử,công dung ngôn hạnh,phụ nữ xưa,chuẩn mực phụ nữ thời xưa,chuẩn mực phụ nữ theo Nho giáo
Câu hỏi mới nhất:
- Que này là gì?
- Tại sao con gái lại phải đeo bông tai (vàng)?
- Tìm từ nói về sự gắn kết nghĩa tình vợ chồng?
- Có chí làm quan, có gan làm giàu nghĩa là gì vậy?
- Có phải do phím bị liệt không?
- Cách viết ngày tháng trong tiếng Anh: ngày trong tháng, ngày trong tuần, tháng trong năm
- Gapyear có ảnh hưởng đến việc xét vào Đại học không ạ?
- Bạn A đăng tải hình ảnh của bạn B lên mạng xã hội mà chưa được sự đồng ý của bạn B, hành vi của bạn A có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
- Làm thế nào để quên crush cũ?
- Tại sao cr lại cười mỗi khi ai đó nhắc tên tớ trước mặt cậu ấy?
- Xem tất cả câu hỏi >>
Câu hỏi khác:
Bạn có câu hỏi cần giải đáp, hãy gửi cho mọi người cùng xem và giải đáp tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi câu hỏi
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!