Tác giả tác phẩm: Mời trầu - Ngữ văn 8 Cánh diều
Ngọc Anh | Chat Online | |
22/10 15:13:15 |
8 lượt xem
Tác giả tác phẩm: Mời trầu - Ngữ văn 8
I. Tác giả Hồ Xuân Hương
- Nhà thơ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại Tỉnh Nghệ An, nước Việt Nam. Bà sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Bà sinh thuộc cung (chưa rõ), cầm tinh con (giáp) rồng (Nhâm Thìn 1772). Hồ Xuân Hương xếp hạng nổi tiếng thứ 1607 trên thế giới và thứ 2 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
- Theo các tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây (Hà Nội bây giờ) lấy tên là Cổ Nguyệt Đường.
- Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái: hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô độc.
- Phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương:
+ Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng.
+ Nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
=> Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”.
II. Đọc bài thơ Mời trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
III. Tìm hiểu tác phẩm Mời trầu
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: Thơ thất ngôn tứ tuyệt.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Mời trầu thì hiện tại chưa có mốc thời gian hay hoàn cảnh cụ thể, tuy nhiên theo một số ghi chép thì bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Bài thơ này được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.
3.Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.
4. Bố cục bài thơ “ Mời trầu”
- Bài thơ được chia thành 4 phần tương ứng với bốn câu lần lượt là: Khởi, thừa, chuyển, hợp.
+ Câu 1: Hình ảnh quả cau miếng trầu
+ Câu 2: Khẳng định bản thân
+ Câu 3: Câu nói giao duyên
+ Câu 4: Niềm mong mỏi về hạnh phúc lứa đôi
5. Giá trị nội dung
- Bài thơ Mời trầu nói lên được ý thức cá nhân, tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa mặc cho những định kiến, những hủ tục u ám của thời đại. Qua đó, bài thơ cũng là một tiếng nói trân trọng người phụ nữ, trân trọng những giá trị và ước mơ của họ trước cuộc đời.
6. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt được Hồ Xuân Hương sử dụng rất nhuần nhuyễn. Đây là thể thơ có quy luật nghiêm khắc về luật, niêm và vần (theo bằng trắc) và có bố cục rõ ràng. Ta có thể thấy điều này thể hiện rõ trong cách gieo vần của bài Mời trầu.
- Vần ở các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Cụ thể ở đây là “hôi”, “rồi” “vôi”. Bốn câu trong bài Mời trầu được viết đúng theo thứ tự là các câu: khai, thừa, chuyển, hợp.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Mời trầu
1. Hai câu thơ đầu
“Quả cau nhỏ nhỏ tạo thành miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
- Giới thiệu hình ảnh quả cau miếng trầu 'nho nhỏ', xoàng xĩnh.
- Lời mời trầu tự nhiên, thân mật 'này', 'quệt'.
=> Với việc sử dụng từ ngữ độc đáo; cách vận dụng ca dao, tục ngữ tài tình đã làm nổi bật thân phận nhỏ nhoi nhưng cũng khẳng định được cái tôi bản lĩnh, táo bạo của bà chúa thơ Nôm.
2. Câu thơ tiếp theo
'Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”
- Lời nhắn gửi về sự gắn bó chung tình.
- Câu phủ định, so sánh, thành ngữ để phê phán sự hờ hững, lạnh nhạt trong tình cảm.
=> Hai câu thơ sử dụng chất liệu dân gian độc đáo, thành ngữ 'xanh như lá, bạc như vôi' và chữ dân gian 'phải duyên' bộc lộ tâm trạng về khát vọng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời là lời cảnh báo của nữ sĩ đối với thói bạc tình, bạc nghĩa.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài 1: Phân tích bài thơ Mời trầu
Xuân Diệu, nhà thơ, nhà bình thơ tinh tế đã viết về bài thơ 'Mời trầu' của Hồ Xuân Hương, song chủ yếu nghiêng về bình diện xã hội học: 'Bọn cậu viên, cậu ấm không thực bụng yêu thương, chỉ định quẩn quanh chim chuột, bọn bạc tình, bọn nhạt nhẽo' được Xuân Hương lấy cau, lấy trầu ra mời mà thực là mắng khéo hoặc mỉa mai... Cậu công tử kia lần sau còn đến, và lần này Xuân Hương lại dùng đến trầu cau một cách rõ ràng hơn, để tống khách đi ngay từ cái phút 'miếng trầu làm đầu câu chuyện'
'Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Nhưng vấn để không chỉ có thế. Đi sâu khảo sát câu chữ, tín hiệu ngữ nghĩa của từng dòng thơ, dường như bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn ấy lại mở ra khá nhiều phương diện nghệ thuật sâu lắng phù hợp với phong cách tư duy thơ ca của Hồ Xuân Hương.
Ngay ở câu thơ mở đầu, đối tượng vận dụng không được nữ sĩ mô tả ở vẻ đẹp toàn diện, cũng không phải cái đẹp thông thường, mà căn bản cảm nhận ở khía cạnh bất thường, dị thường. Ở đây, quả cau phải là 'nho nhỏ còn miếng trầu thì 'hôi'. Điều này có sự chiếu ứng tương hợp với quan niệm cái đẹp và hình thức tư duy nghệ thuật trong phần lớn các sáng tác của Hồ Xuân Hương. Trong dự cảm sáng tạo của mình, dễ thấy nữ sĩ thường đồng cảm với những đối tượng tầm thường nhỏ mọn như loại con ốc, cái quạt, quả mít 'xù xì', cái trống 'thủng', bánh trôi nước 'bảy nổi ba chìm', đồng tiền 'hoẻn'; cho đến những hình ảnh thiên nhiên cũng thô kệch, méo mó, kì dị, dị thường đến hết mức, với những đá 'ông chồng, bà chồng', trăng 'chín mõm mòm', 'dỏ lòm lom'... Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, 'đỏ lòm lom'... Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, chỉ từ 'này' đi với đại từ sở hữu 'của' vừa có nghĩa để chỉ quả cau, miếng trầu trên kia, vừa có nghĩa chỉ về một cái gì đó, một cái nào đó 'của' Xuân Hương. Hơn nữa, cái 'này của Xuân Hương' cũng hàm nghĩa chuyển tiếp, phiếm chỉ những trầu, cau ở câu trên và nối với động từ 'quệt'. Ý thơ ở đây khá là lấp lửng: 'trầu cau - cái này' và 'cái này - quệt' (quệt vôi hoặc có thể quẹt cái gì đó!). Cách nói ỡm ờ, thanh - tục, tục - thanh kiểu này vốn rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương.
Còn lại hai câu thơ sau vừa mở ra những tuyến cảm xúc trữ tình như khác biệt mà kì thực lại nương tựa, liên hệ hoàn chỉnh lẫn cho nhau. Câu thơ 'Có phải duyên nhau thì thắm lại' chính là một lời 'mời mọc, khao khát nguyện cầu' cho duyên tình tròn đầy; còn câu kết 'Đừng xanh như lá, bạc như vôi' lại là tiếng nói răn đe, cảnh tỉnh, hàm thêm một nghĩa phê phán khinh bạc: loại người 'xanh như lá, bạc như vôi’’ ấy mà. Câu thành ngữ được sử dụng ở đây quả là đắc dụng. Điều sâu lắng và tế nhị hơn, khi nói về sự 'phải duyên', nhà thơ đã nói hết lẽ, nói đến điều cái kết quả viên mãn 'thắm lại'; nhưng ở câu thơ sau, thi nhân chỉ nêu hiện tượng, chỉ đưa ra lời khuyên: 'Đừng...', chứ không đành lòng, không nỡ nói tới tận cùng cái nhân, cái quả như kiểu câu thơ trên. Một lời khuyên nhủ, cảnh tỉnh xa xôi, kể cũng thật tình tứ và giàu lòng trắc ẩn.
Có một điều khác nữa - và đây mới là điểm nút để hiểu cả bài thơ - là mối liên hệ logic sâu xa giữa hai câu thơ sau này với ý tưởng chủ đạo qua câu thơ mở đầu. Dường như ờ đáy sâu tâm thức sáng tạo, dự cảm xót xa về thân phận con người nhỏ bé đồng hành với tiếng nói nguyện cầu khát khao hạnh phúc. Trên cái nền của lối thơ, biểu tượng ỡm ờ hai mặt truyền thống, bài thơ 'Mời trầu' chắc hẳn không chỉ gắn với ý nghĩa phê phán cụ thể nào đó (nếu có), mà căn bản hơn là tiếng lòng thâm trầm sâu lắng, khát khao hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát khao mong chờ tiếng đồng vọng, hay là chiếc xương sườn thứ bảy còn vô tăm tích nơi xa.
Đề bài 2: Suy nghĩ về ý kiến: Hồ Xuân Hương viết về việc mời trầu nhưng là để nói chuyện tình cảm
Bài thơ Mời trầu chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu là tâm sự tâm tình của người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng cả cuộc đời bà luôn bênh vực người phụ nữ cũng chính là bênh vực chính bản thân mình trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy. Qua đấy ta có thể thấy được Xuân Hương quả thật là một người mạnh mẽ, bà có tiếng nói riêng đại diện cho những người phụ nữ. Bài thơ Mời trầu đã thể hiện rõ những nỗi lòng của bà chúa thơ Nôm. Thơ Xuân Hương cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc, cái thanh cái tục trong thơ bà đầy ẩn ý thế nhưng người ta không thể nào không thấy được những ý nghĩa nội dung mà bà muốn truyền tải qua những câu thơ của mình. Có thể nói rằng tài năng thơ ca của bà thật xứng danh với cái tên gọi mà người đời gọi bà đó chính là bà chúa thơ Nôm. Trong số những bài thơ Nôm ấy nổi bật lên bài thơ Mời trầu mà qua đó ta thấy được những tâm sự những điều mà Xuân Hương trăn trở về cuộc đời của mình. Chuyện tình duyên và nỗi lòng người phụ nữ tài ba ấy được khắc hoạ rất rõ.
I. Tác giả Hồ Xuân Hương
- Nhà thơ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại Tỉnh Nghệ An, nước Việt Nam. Bà sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Bà sinh thuộc cung (chưa rõ), cầm tinh con (giáp) rồng (Nhâm Thìn 1772). Hồ Xuân Hương xếp hạng nổi tiếng thứ 1607 trên thế giới và thứ 2 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
- Theo các tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây (Hà Nội bây giờ) lấy tên là Cổ Nguyệt Đường.
- Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái: hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô độc.
- Phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương:
+ Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng.
+ Nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
=> Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”.
II. Đọc bài thơ Mời trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
III. Tìm hiểu tác phẩm Mời trầu
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: Thơ thất ngôn tứ tuyệt.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Mời trầu thì hiện tại chưa có mốc thời gian hay hoàn cảnh cụ thể, tuy nhiên theo một số ghi chép thì bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Bài thơ này được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.
3.Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.
4. Bố cục bài thơ “ Mời trầu”
- Bài thơ được chia thành 4 phần tương ứng với bốn câu lần lượt là: Khởi, thừa, chuyển, hợp.
+ Câu 1: Hình ảnh quả cau miếng trầu
+ Câu 2: Khẳng định bản thân
+ Câu 3: Câu nói giao duyên
+ Câu 4: Niềm mong mỏi về hạnh phúc lứa đôi
5. Giá trị nội dung
- Bài thơ Mời trầu nói lên được ý thức cá nhân, tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa mặc cho những định kiến, những hủ tục u ám của thời đại. Qua đó, bài thơ cũng là một tiếng nói trân trọng người phụ nữ, trân trọng những giá trị và ước mơ của họ trước cuộc đời.
6. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt được Hồ Xuân Hương sử dụng rất nhuần nhuyễn. Đây là thể thơ có quy luật nghiêm khắc về luật, niêm và vần (theo bằng trắc) và có bố cục rõ ràng. Ta có thể thấy điều này thể hiện rõ trong cách gieo vần của bài Mời trầu.
- Vần ở các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Cụ thể ở đây là “hôi”, “rồi” “vôi”. Bốn câu trong bài Mời trầu được viết đúng theo thứ tự là các câu: khai, thừa, chuyển, hợp.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Mời trầu
1. Hai câu thơ đầu
“Quả cau nhỏ nhỏ tạo thành miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
- Giới thiệu hình ảnh quả cau miếng trầu 'nho nhỏ', xoàng xĩnh.
- Lời mời trầu tự nhiên, thân mật 'này', 'quệt'.
=> Với việc sử dụng từ ngữ độc đáo; cách vận dụng ca dao, tục ngữ tài tình đã làm nổi bật thân phận nhỏ nhoi nhưng cũng khẳng định được cái tôi bản lĩnh, táo bạo của bà chúa thơ Nôm.
2. Câu thơ tiếp theo
'Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”
- Lời nhắn gửi về sự gắn bó chung tình.
- Câu phủ định, so sánh, thành ngữ để phê phán sự hờ hững, lạnh nhạt trong tình cảm.
=> Hai câu thơ sử dụng chất liệu dân gian độc đáo, thành ngữ 'xanh như lá, bạc như vôi' và chữ dân gian 'phải duyên' bộc lộ tâm trạng về khát vọng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời là lời cảnh báo của nữ sĩ đối với thói bạc tình, bạc nghĩa.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài 1: Phân tích bài thơ Mời trầu
Xuân Diệu, nhà thơ, nhà bình thơ tinh tế đã viết về bài thơ 'Mời trầu' của Hồ Xuân Hương, song chủ yếu nghiêng về bình diện xã hội học: 'Bọn cậu viên, cậu ấm không thực bụng yêu thương, chỉ định quẩn quanh chim chuột, bọn bạc tình, bọn nhạt nhẽo' được Xuân Hương lấy cau, lấy trầu ra mời mà thực là mắng khéo hoặc mỉa mai... Cậu công tử kia lần sau còn đến, và lần này Xuân Hương lại dùng đến trầu cau một cách rõ ràng hơn, để tống khách đi ngay từ cái phút 'miếng trầu làm đầu câu chuyện'
'Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Nhưng vấn để không chỉ có thế. Đi sâu khảo sát câu chữ, tín hiệu ngữ nghĩa của từng dòng thơ, dường như bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn ấy lại mở ra khá nhiều phương diện nghệ thuật sâu lắng phù hợp với phong cách tư duy thơ ca của Hồ Xuân Hương.
Ngay ở câu thơ mở đầu, đối tượng vận dụng không được nữ sĩ mô tả ở vẻ đẹp toàn diện, cũng không phải cái đẹp thông thường, mà căn bản cảm nhận ở khía cạnh bất thường, dị thường. Ở đây, quả cau phải là 'nho nhỏ còn miếng trầu thì 'hôi'. Điều này có sự chiếu ứng tương hợp với quan niệm cái đẹp và hình thức tư duy nghệ thuật trong phần lớn các sáng tác của Hồ Xuân Hương. Trong dự cảm sáng tạo của mình, dễ thấy nữ sĩ thường đồng cảm với những đối tượng tầm thường nhỏ mọn như loại con ốc, cái quạt, quả mít 'xù xì', cái trống 'thủng', bánh trôi nước 'bảy nổi ba chìm', đồng tiền 'hoẻn'; cho đến những hình ảnh thiên nhiên cũng thô kệch, méo mó, kì dị, dị thường đến hết mức, với những đá 'ông chồng, bà chồng', trăng 'chín mõm mòm', 'dỏ lòm lom'... Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, 'đỏ lòm lom'... Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, chỉ từ 'này' đi với đại từ sở hữu 'của' vừa có nghĩa để chỉ quả cau, miếng trầu trên kia, vừa có nghĩa chỉ về một cái gì đó, một cái nào đó 'của' Xuân Hương. Hơn nữa, cái 'này của Xuân Hương' cũng hàm nghĩa chuyển tiếp, phiếm chỉ những trầu, cau ở câu trên và nối với động từ 'quệt'. Ý thơ ở đây khá là lấp lửng: 'trầu cau - cái này' và 'cái này - quệt' (quệt vôi hoặc có thể quẹt cái gì đó!). Cách nói ỡm ờ, thanh - tục, tục - thanh kiểu này vốn rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương.
Còn lại hai câu thơ sau vừa mở ra những tuyến cảm xúc trữ tình như khác biệt mà kì thực lại nương tựa, liên hệ hoàn chỉnh lẫn cho nhau. Câu thơ 'Có phải duyên nhau thì thắm lại' chính là một lời 'mời mọc, khao khát nguyện cầu' cho duyên tình tròn đầy; còn câu kết 'Đừng xanh như lá, bạc như vôi' lại là tiếng nói răn đe, cảnh tỉnh, hàm thêm một nghĩa phê phán khinh bạc: loại người 'xanh như lá, bạc như vôi’’ ấy mà. Câu thành ngữ được sử dụng ở đây quả là đắc dụng. Điều sâu lắng và tế nhị hơn, khi nói về sự 'phải duyên', nhà thơ đã nói hết lẽ, nói đến điều cái kết quả viên mãn 'thắm lại'; nhưng ở câu thơ sau, thi nhân chỉ nêu hiện tượng, chỉ đưa ra lời khuyên: 'Đừng...', chứ không đành lòng, không nỡ nói tới tận cùng cái nhân, cái quả như kiểu câu thơ trên. Một lời khuyên nhủ, cảnh tỉnh xa xôi, kể cũng thật tình tứ và giàu lòng trắc ẩn.
Có một điều khác nữa - và đây mới là điểm nút để hiểu cả bài thơ - là mối liên hệ logic sâu xa giữa hai câu thơ sau này với ý tưởng chủ đạo qua câu thơ mở đầu. Dường như ờ đáy sâu tâm thức sáng tạo, dự cảm xót xa về thân phận con người nhỏ bé đồng hành với tiếng nói nguyện cầu khát khao hạnh phúc. Trên cái nền của lối thơ, biểu tượng ỡm ờ hai mặt truyền thống, bài thơ 'Mời trầu' chắc hẳn không chỉ gắn với ý nghĩa phê phán cụ thể nào đó (nếu có), mà căn bản hơn là tiếng lòng thâm trầm sâu lắng, khát khao hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát khao mong chờ tiếng đồng vọng, hay là chiếc xương sườn thứ bảy còn vô tăm tích nơi xa.
Đề bài 2: Suy nghĩ về ý kiến: Hồ Xuân Hương viết về việc mời trầu nhưng là để nói chuyện tình cảm
Bài thơ Mời trầu chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu là tâm sự tâm tình của người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng cả cuộc đời bà luôn bênh vực người phụ nữ cũng chính là bênh vực chính bản thân mình trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy. Qua đấy ta có thể thấy được Xuân Hương quả thật là một người mạnh mẽ, bà có tiếng nói riêng đại diện cho những người phụ nữ. Bài thơ Mời trầu đã thể hiện rõ những nỗi lòng của bà chúa thơ Nôm. Thơ Xuân Hương cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc, cái thanh cái tục trong thơ bà đầy ẩn ý thế nhưng người ta không thể nào không thấy được những ý nghĩa nội dung mà bà muốn truyền tải qua những câu thơ của mình. Có thể nói rằng tài năng thơ ca của bà thật xứng danh với cái tên gọi mà người đời gọi bà đó chính là bà chúa thơ Nôm. Trong số những bài thơ Nôm ấy nổi bật lên bài thơ Mời trầu mà qua đó ta thấy được những tâm sự những điều mà Xuân Hương trăn trở về cuộc đời của mình. Chuyện tình duyên và nỗi lòng người phụ nữ tài ba ấy được khắc hoạ rất rõ.
Tải file tài liệu:
Bình luận
Chưa có bình luận nào, bạn có thể gửi bình luận của bạn tại đây
Tài liệu khác:
- Tác giả tác phẩm: Vịnh khoa thi Hương - Ngữ văn 8 Cánh diều
- Tác giả tác phẩm: Xa ngắm thác núi Lư - Ngữ văn 8 Cánh diều
- Trắc nghiệm Sử 8 bài 5 - Công xã Pari 1871
- Trắc nghiệm Sử 8 bài 4 - Phong trào công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa Mác
- Trắc nghiệm Sử 8 bài 3 - Chủ nghĩa tư bản được xác lập trên phạm vi thế giới
- Tác giả tác phẩm: Người thầy đầu tiên - Ngữ văn 8 Cánh diều
- Tác giả tác phẩm: Lão Hạc - Ngữ văn 8 Cánh diều
- Tác giả tác phẩm: Nước Đại Việt ta - Ngữ văn 8 Cánh diều
- Tác giả tác phẩm: Chiếu dời đô - Ngữ văn 8 Cánh diều
- Đề kiểm tra cuối học kì 1 lớp 8 môn tiếng Anh năm 2023 - 2024 - tỉnh Bắc Ninh
Bạn có tài liệu hay, hãy gửi cho mọi người cùng xem và tham khảo tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Đăng tài liệu