Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Trần Quốc Tuấn không chỉ là người bị tướng có tài mà còn là người có lí luận sắc bén


trần quốc tuấn không chỉ là người bị tướng có tài mà còn là người có lí luận sắc bén







 
2 trả lời
Hỏi chi tiết
81
0
0
Phương Mai
12/03/2022 05:55:39
+5đ tặng

Tài năng kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo sức dân ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ nước”.

 

Cũng hiếm người nhìn ra việc đoàn kết nội bộ là việc sống còn, là yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh, nâng cao quốc lực, tiền đề cho thắng lợi cuối cùng như ông. Cũng chính Hưng Đạo vương, sau các chiến thắng lừng lẫy đã xác định, đại ý: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục nên quân địch đã phải bị bắt”. Yếu tố đoàn kết từ thượng tầng triều đình đến hạ tầng dân chúng, đoàn kết quân dân, đoàn kết toàn quân, xây dựng đội quân “phụ tử chi binh” chính là khơi dậy mạch nguồn sức mạnh từng bước tiến tới toàn thắng. Đó là nguồn sức mạnh vô địch mà nhân dân Đại Việt không những đứng vững mà còn chiến thắng đế quốc Nguyên - Mông.

Hưng Đạo vương trong với cương vị thống soái quân sự là một nhà chiến lược đại tài mà sử sách ắt hẳn sẽ còn bàn đến nhiều. Chiến lược quân sự của ông thực ra rất giản dị, đó là lấy nhỏ thắng lớn, cả nước đánh giặc, lấy đoản binh chống trường trận, không những có tính khoa học mà còn có tính thực tiễn rất cao mà đỉnh cao là chiến thắng cuối cùng. Từ lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước, khi mà dân tộc Đại Việt luôn phải chiến đấu với các kẻ thù hùng mạnh gấp bội thì chiến lược quân sự của ông là hết sức đúng đắn. Chính từ chiến lược đúng đắn ấy, dân tộc ta đã chuyển từ tình thế hiểm nghèo sang chủ động, sáng tạo xoay chuyển thế trận, sáng tạo tạo dựng thời cơ. Khi thời cơ chín muồi chuyển sang tổng phản công, biết chọn đúng hướng, đúng mục tiêu, đánh những trận có tính quyết định khiến kẻ thù đông mà mất ưu thế, giảo quyệt mà thúc thủ, tàn ác mà phải run sợ, chuẩn bị kỹ cho cuộc chiến tranh xâm lược mà phải sớm tháo chạy nhục nhã thực là việc cổ kim chưa từng thấy.

 

Nghệ thuật quân sự của Hưng Đạo vương trong nhiều nét nổi bật thì tính chủ động và linh hoạt là một nét nổi trội hàng đầu. Trong những lúc tình thế hiểm nghèo, nghiêm ngặt nhất, ông vẫn biết cách chủ động điều địch trên các chiến trường theo chủ ý của người cầm quân, chủ định điều địch khi chúng ở thế thượng phong vẫn phải chạy theo ý đồ chiến lược của ta. Thực chất là dắt mũi chúng, xỏ mũi chúng mà chúng hoàn toàn không biết hoặc có biết cũng không có cách gì khắc chế được. Tư duy chiến lược của ông khiến địch khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Đó cũng là nền tảng làm lên chiến thắng giặc Nguyên - Mông.

Nghệ thuật quân sự của Hưng Đạo vương là việc phát động toàn dân tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Đại Việt, có lẽ ba lần kháng chiến Nguyên - Mông sự xuất hiện thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc ở khắp các thôn làng ngõ xóm, sự kết hợp chiến đấu của quân chủ lực triều đình với dân binh các dân tộc anh em diễn ra khăng khít là sớm nhất. Đó là một thế trận vô cùng sâu rộng, vô cùng chủ động và bền vững, không ngừng tiến công trên các mặt trận, tạo ra sức mạnh mà kẻ thù không lường hết được và đương nhiên chúng phải đại bại trước thế trận toàn dân.

 

Hưng Đạo vương không những là vị thống soái quân sự cao nhất mà còn là một nhà lý luận, nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng với nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Điển hình của lý luận quân sự của ông thể hiện cao nhất ở Hịch tướng sĩ và sau này là bản di chúc lịch sử thể hiện tinh hoa khí phách dân tộc Đại Việt trong việc đánh giặc giữ nước. Tư tưởng quân sự của ông là tư tưởng quân sự tiến bộ, kết hợp tri thức quân sự đông tây kim cổ với thực tiễn chiến tranh, thực tiễn chiến trường và khả năng tác chiến của nhân dân. Tư tưởng quân sự của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đầy sức sống, rất uyên thâm. Tư tưởng quân sự của ông là dựa vào dân, khoan thư sức dân, xây đoàn kết toàn dân, toàn quân và thể chế chính trị cầm quyền. Đó là những tư tưởng vượt thời gian, luôn có mặt trong mọi thời đại mà hậu thế đã tôn vinh.

 

Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn không chỉ có tài năng kiệt xuất về quân sự mà ông còn là một tấm gương sáng về lòng trung nghĩa, coi việc nước, coi giang sơn Tổ quốc cao hơn mọi hiềm khích riêng tư, Tổ quốc cao hơn ngai vua, cao hơn những tư thù, tị hiềm, vị kỷ. Dưới trướng của ông, những bậc hiền tài lương tướng trưởng thành và được trọng dụng, là giường cột quốc gia. Những tướng lĩnh được ông đào tạo không những có biệt tài đánh giặc, họ còn thể hiện đức cao vọng trọng từ chính tấm gương của ông. Đó là một điều vô cùng hiếm hoi trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nguyễn Nguyễn
12/03/2022 06:34:56
+4đ tặng

Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một "thiên cổ hùng văn" bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.

Thành công đầu tiên của Hịch tướng sĩ là chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Tình cảm sục sôi và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.

Mở đầu bài hịch, vị chủ tướng nêu cao gương sáng các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa (Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh) hay anh dũng chống giặc hi sinh vì nước (Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư). Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết nhưng dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tường, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Lời văn ngắn gọn, súc tích nhưng đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ biết tự nhìn lại mình.

Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn được bộc lộ rõ ràng hơn khi ông nói về sự ngang ngược và tội ác của quân giặc. Ông đã lột tả bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của đoàn quân xâm lược: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa tủi nhục, xót xa vừa căm giận, khinh bỉ, coi chúng như những loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói, lột rõ bản chất tham lam, tàn bạo của chúng.

Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ hiểm họa của Tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Lời lẽ chân tình, thống thiết, thấu tận nhân tâm khiến ta càng kính trọng hơn người anh hùng đã hết lòng vì nước quên mình. Bởi lo thế giặc mạnh, quân giặc hung bạo, bất nhân còn thế nước lại yếu, tướng sĩ vô tâm, cái nguy cơ mất nước hiện hữu trước mắt khiến cho vị chủ tướng "tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa", ngày đêm suy nghĩ cách phá giặc bảo vệ non sông. Trong khi, quân giặc đang giày xéo trên quê hương, muôn dân đang bị chúng cướp bóc, sát hại thảm thiết. Nỗi căm tức dâng lên tột cùng, uất nghẹn: "căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Vì đất nước "dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa", ông cũng vui lòng.

Với bút pháp khoa trương, tính chất ước lệ, giọng văn nghẹn ngào, thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn ngữ hùng biện của thể hịch văn, bài hịch có sức ngân vang lớn. Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả những trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới cực điểm. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người đến thế.

Từ căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là tất yếu và phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu khuất phục. Đó là khí phách của một dân tộc anh hùng. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ ràng ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì nước của vị thống soái toàn quân là yếu tố rất quan trọng, nhưng chưa đủ làm nên chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh ấy phải được tạo nên từ sự đồng lòng nhất chí, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù của cả dân tộc.

Trong khi tướng sĩ vẫn còn đang mải lo cho bản thân, ham mê lạc thú mà quên đi nhiệm vụ bảo vệ nước nhà. Ông đã rất đau xót và nghiêm khắc khi nhắc nhở tướng lĩnh của mình. Đầu tiên ông nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Ông còn nhắc lại mối giao hòa chủ tướng thắm thiết như phụ tử cùng sống chết trong mặc, cùng vui vẻ khi bình yên. Ông cũng nghiêm khắc chỉ trích lối sống thờ ơ, hèn nhục của tướng sĩ khi quân giặc giày xéo quê hương: thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn..., không biết căm,...

Mỗi thú vui của tướng sĩ không có gì là xấu nhưng nó không hợp với thời cuộc. Đất nước đang trong nước sôi lửa bỏng, vận mệnh dân tộc đang lâm nguy, kẻ thù thiện chiến và hùng mạnh, mà tướng sĩ vẫn thờ ơ tức là tự đẩy mình vào diệt vong, muôn đời chịu nhục. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, sử dụng nghệ thuật đối lập, cấu trúc câu trùng điệp tạo khí thế hùng hồn, từng lời từng chữ như chảy ra từ trong tim tha thiết vô cùng, Trần Quốc Tuấn đã thức tỉnh toàn quân cầm gươm chống giặc. Đó không phải là một mệnh lệnh cứng nhắc mà là một lời tâm tình rưng rưng nước mắt. Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ trái tim nhân hậu, từ lòng yêu nước lớn lao.

Không những vạch rõ yếu kém của tướng sĩ, ông còn chỉ ra cái nguy cơ dẫn đến thảm kịch của đất nước, của gia đình, của cá nhân và cách để hóa giải cái nguy cơ ấy. Với bản lĩnh của một vị tướng kiệt xuất có tầm nhìn xa trông rộng và niềm tin tất thắng của dân tộc, ông hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi nếu mỗi binh sĩ đều hết lòng xả thân chống giặc cứu nước. Đó cũng là một lời hứa đinh ninh trước trời đất của vị chủ tướng để huy động toàn bộ sức mạnh dân tộc trong cuộc quyết chiến với kẻ thù xâm lược.

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta. Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ. Với bài hịch ngắn gọn, xúc tích, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bản hùng ca vang mãi đến muôn đời.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo