Phạm Duy Tốn là một nhà văn sáng tác không nhiều, nhưng trong số các tác phẩm của ông, nổi bật nhất là truyện ngắn “Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã để lại nhiều giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về bộ mặt thực dân phong kiến trong xã hội đương thời.
Tác phẩm được in lần đầu trên tạp chí Nam Phong, số 18, xuất bản năm 1918. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhà văn đã tập trung tái hiện một cách khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa, hưởng lạc của lũ quan lại. Trước hết, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng đầu tiên về nhan đề của truyện. “Sống chết mặc bay” được lấy ý từ thành ngữ “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Nó đã cho thấy vô trách nhiệm của quan phụ mẫu với nhân dân. Dù dân có sống hay cái chết, quan cũng mặc kệ, không hề để ý, không hề quan tâm. Như vậy nhà văn đã gợi mở cho người đọc được nội dung của tác phẩm ngay từ nhan đề.
Tiếp đến khi đi sâu vào khám phá nội dung, người đọc có thể cảm nhận được nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nhà văn đã khắc họa hai cảnh đối lập nhau: cảnh nhân dân hộ đê ngoài trời và cảnh các quan hộ bài trong đình. Mở đầu truyện là cảnh nhân dân hộ đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đê còn hay mất ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ dân chúng và quan lại. Những tưởng trong hoàn cảnh đó, quan lại phải là người đứng “đầu sóng ngọn gió” cùng với nhân dân hộ đê. Nhưng sự việc diễn ra lại hoàn toàn đối lập với lẽ thông thường ấy.
Hoàn toàn trái ngược với hình ảnh bên ngoài, trong đình cách đó không xa, viên quan phụ mẫu của dân đang ngồi chơi bài. Nhà văn đã khắc họa một khung cảnh tráng lệ, yên bình đáng sợ: “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng”. Thái độ của quan phụ mẫu cũng chẳng có gì là lo lắng cho con đê ngoài kia. Quan chỉ nghĩ đến ván bài đang chơi dở Khi có người chạy vào báo với quan là đê đã vỡ: “Bẩm quan lớn, dễ đê vỡ mất rồi”. Thì quan lại đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi! Thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày”. Đối diện với hiện thực ấy, mức độ vô trách nhiệm của quan càng thể hiện rõ khi quan cho rằng mình đứng ngoài cuộc trong việc hộ đê. Giọng đe dọa của quan đã thể hiện ngài là người quen thói hống hách, quát nạt. Cho nên khi nghe tin đê vỡ, ngay lập tức ngài đổ trách nhiệm cho dân: “ông cách cổ, ông bỏ tù chúng mày”. Quan đã tự cho mình chẳng có liên quan gì trong sự việc này. Hơn thế nữa, quan lại tức còn tức giận vì ngườị nhà quê đã làm gián đoạn ván bài của mình. Ngay khi đuổi được anh ta đi khỏi, quan quay trở lại ván bài một cách sốt sắng: “Thầy bốc quân gì thẻ?” Đến khi ván bài ù, quan vỗ tay xuống sập kêu to. Ngài xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy! Điếu mày!”. Niềm vui của quan là niềm vui chà đạp lên bao sinh mạng của nhân dán, bao tiếng kêu cứu. Đam mê cá nhân của quan được thỏa mãn nhưng đánh đổi bằng bao nhân mạng và của cải của người dân. Cuối cùng khi con đê bị vỡ, “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Đó lại là lúc quan sung sướng vì đã ù được ván bài. Sự đối lập này đã khiến người đọc cảm thấy đau đớn, xót xa thay trước tình cảnh bi thảm của nhân dân, căm giận thái độ thờ ơ và vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu.
Khi đọc truyện, người đọc đã cảm nhận sâu sắc về hoàn cảnh éo le của người dân, sự vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu. Sống chết mặc bay quả thật là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn.