Về chính trị - quân sự: Nửa đầu thế kỷ 13, nước Ðại Việt vừa bước qua cuộc chuyển giao quyền lực từ tay nhà Lý về tay nhà Trần. Trong vòng 30 năm (1258 - 1288), đế chế Mông - Nguyên đã ba lần xâm lược nước ta, với mưu đồ chiếm vị trí chiến lược của Ðại Việt để bành trướng khắp vùng Ðông - Nam Á. Tổng số quân lính mà chúng huy động lên tới hơn 130.000 người. Ngay từ lần kháng chiến thứ nhất năm 1258, theo sự chỉ huy của Thái sư Trần Thủ Ðộ, quân dân ta đã tạm thời rút khỏi Thăng Long, thực hiện kế sách "thanh dã" (vườn không nhà trống), không để cho giặc có cơ hội tiếp cận nguồn lương thực, của cải sẵn có trong kinh thành. Giặc đến Thăng Long chỉ còn thấy một tòa thành trống rỗng, với tù binh để lại chính là mấy tên sứ giả do chúng cử sang. Kế sách "thanh dã" đã bảo tồn toàn vẹn lực lượng của quân dân ta, chờ thời cơ tốt thuận lợi thì nghênh chiến giành lấy thắng lợi. Trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Ðằng vào năm 1288 đã chấm dứt hoàn toàn âm mưu thôn tính Ðại Việt của đế chế Nguyên - Mông. Từ đó, nhân dân ta lại được sống trong thanh bình, vua tôi đồng lòng xây dựng đất nước.
Về kinh tế: Dưới thời Trần, nền kinh tế công thương nghiệp thành thị bắt đầu hình thành và phát triển. Là trung tâm kinh tế lớn nhất lúc bấy giờ, Thăng Long tập trung đông đảo đội ngũ thị dân tham gia buôn bán, sinh sống. Tiếp nối sự nghiệp xây dựng, củng cố đê điều đã có từ triều Lý, các vua nhà Trần đặt ra chức quan trông coi việc đắp đê gọi là "hà đê sứ". Hằng năm sau vụ mùa, triều đình lệnh cho quân sĩ đắp đê, hào, giúp đỡ nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng đến đê sông Hồng.
Về văn hóa - xã hội: Khoa thi Thái học sinh được tiến hành từ năm 1239, rồi theo lệ, cứ bảy năm tổ chức một lần. Ðến năm 1247, triều đình đặt danh hiệu Tam khôi cho ba người đỗ đầu là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Từ năm 1253, nhà Trần chuyển nhà Thái học vốn chỉ dành cho các hoàng tử và con cháu quan lại thành Quốc học viện, thu hút những người học giỏi xuất thân từ tầng lớp bình dân.