Những áng văn thơ luôn là nơi gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sỹ lớn. Những người không cùng thời đại, không cùng lý tưởng sống hay tuổi tác thế nhưng trong thơ văn của họ đôi khi lại cùng sáng lên những nét đẹp đồng điệu đến lạ thường. Khi đọc bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh bắt gặp hình ảnh “tiếng suối trong như tiếng hát ca” ta lại bất chợt nhớ đến câu thơ “Côn Sơn suối chảy rì rầm- ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai ” của Nguyễn Trãi viết khi về Côn Sơn ở ẩn tránh xa thế sự. Ở cả hai bài thơ tiếng suối cũng đều đẹp vô cùng.
Cả hai bài thơ đều lấy những điều đẹp đẽ, ở những câu hát bài ca của con người để ví von tiếng suối ở Côn Sơn dưới con mắt của Nguyễn Trãi giống như tiếng nhạc đàn cầm vừa trong trẻo lại vừa âm vang khiến cho tinh thần thư thái, làm cho người ta muốn gửi gắm hết những tâm tình. Tiếng suối trong bài thơ của Hồ Chí Minh lại mang âm vang giống như những tiếng ca tiếng hát của con người. Cả hai nhà thơ, không hẹn mà gặp, cùng cảm nhận thiên nhiên bằng sự tinh tế, bằng các giác quan và bằng cả tâm hồn yêu thiên nhiên sâu sắc, họ cảm nhận được tiếng suối như bài ca tiếng hát của con người, khiến chúng trở nên sinh động hơn, có hồn hơn.
Nguyễn Trãi vốn là bậc nho sỹ có hội tụ đầy đủ: cầm, kỳ, thi, họa. Ông lại lánh xa thế sự về ở ẩn, khi ông so sánh tiếng suối như tiếng đàn thì đã làm toát lên sự thanh tao, nhã nhặn. Ông ví suối chảy “rì rầm” lại như là lời tâm tình gửi trong tiếng nước chảy thanh cao. Ông cảm nhận không chỉ bằng giác quan nhạy bén mà ông cảm nhận thiên nhiên bằng cả tâm hồn của mình. Thiên nhiên ấy như đang mời gọi tác giả bộc bạch tâm tình. Nguyễn Trãi tìm đến Côn Sơn là để “lắng động về trong” sau biết bao khó khăn của thế sự triều đình nên ta đã gặp được một hồn thơ thanh thản đến vậy. Bức tranh thiên nhiên ở Côn Sơn được chấm phá bằng âm thanh của tiếng suối vang lên như đàn cầm. Nghe sao thanh cao nhàn nhã đến vậy. Tâm hồn của Nguyễn Trãi cũng giống như đang hòa quyện vào “ tiếng đàn ấy” bình lặng mà dịu êm. Khác với sự bon chen tấp nập chốn quan trường khốc liệt.
Thế nhưng khác với Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh lại luôn canh cánh nỗi lo của nước nhà, nỗi lo của nhân dân thế nhưng thơ của người vẫn sáng lên vẻ đẹp của tâm hồn. Tiếng suối ở Việt Bắc nơi người ở là từ xa vọng lại thế nhưng người lại cảm nhận được độ trong trẻo ấy để mà ví von, để mà so sánh. Chắc hẳn đây phải là một món quà mà mẹ thiên nhiên ban tặng cho núi rừng. Tiếng suối trong trẻo cao vút như: “tiếng hát xa”, âm thanh đó thật sự đặc biệt, nó không hòa lẫn vào bất cứ âm thanh nào cả, nó lan tỏa khắp giữa rừng đêm cộng thêm cảnh sắc đêm khuya “trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa” tạo nên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp. Tiếng suối ấy mờ ảo vọng lại nhưng tuyệt nhiên không mang lại cho con người ta cảm giác cô độc bởi vì đã được ví von với hình ảnh của con người nên đã sinh động vô cùng. Làm cho bức tranh thiên nhiên không chỉ đẹp mà còn ấp áp tình người.
Hai tâm hồn nghệ sỹ ấy phải chăng đã tìm về với nhau để có được những phút giây hòa mình cùng thiên nhiên đất trời. Dùng tâm hồn nhạy cảm để trái tim rung động trước thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ. Để rồi cả hai người nghệ sỹ ấy dùng ngòi bút của mình để vẽ lên những lời thơ đẹp tựa như tranh.
Nhân cách thanh cao và những tượng đài nghệ thuật của Nguyễn Khuyến và Hồ Chí Minh đã xây dựng lên chói sáng, tỏa ra những ánh hào quang rực rỡ trong lịch sử văn học nước nhà.
Hình ảnh tiếng suối trong cả hai bài thơ dù đều có những nét độc đáo riêng ,ẩn chứa nghệ thuật, và cách so sánh. Tuy nhiên toát lên ở bức tranh thiên nhiên ấy vẫn là tâm hồn nghệ sỹ vô cùng đáng trân trọng của Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Họ đã dùng thơ để vẽ lên những bức họa về thiên nhiên tuyệt đẹp.