Bãi ngô non ngày càng xanh tốt. Những chi tiết đặc tả mầm ngô "lấm tấm như mạ non"', cây ngô non mềm mại vươn lên "rung rung trước gió và ánh nắng". Lá ngô "rộng dài, trổ mạnh mẽ, nõn nà". Chữ "nõn nà" gợi tả lá ngô non xanh mơn mởn, ánh lên, bóng lên mỡ màng.
Trong phần thân bài, tác giả tả chi tiết các bộ phận của cây ngô như hoa ngô, búp ngô non, râu ngô.
Hoa ngô ở trên ngọn cây ngô, trông như một thứ búp kết bằng nhung và phấn vươn lên. Hoa ngô là nơi bướm trắng, bướm vàng bay đến, thoáng đỗ rồi bay đi.
Búp ngô non núp trong cuống lá, nhú lên và lớn dần. Bắp ngô non "có nhiều khía vàng vàng", râu ngô là "những sợi tơ hung hung bọc trong làn áo mỏng óng ánh".
Ngô được trồng vào tháng hai (âm lịch) cùng vụ với trồng đậu, trồng khoai, trồng cà. Đến tháng 5, tháng 6 khi tu hú kêu ran khắp cánh đồng quê, trời nắng chang chang thì ngô trên bãi đã già, "bắp ngô đã mập và chắc", lá ngô quắt lại rủ xuống", hoa ngô "xơ xác như cỏ may”. Đó là vụ thu hoạch ngô đã đến, người nông dân ra bãi ngô bẻ bắp ngô đem về. Cây ngô đã đi trọn một vòng đời.
Đàn bướm, chim tu hú và ánh nắng là ngoại cảnh gắn liền với quá trình sinh sôi nảy nở và phát triển của cây ngô, bãi ngô. Mùa xuân, cây ngô trổ hoa, kết búp thì "bướm trắng, bướm vàng bay đến, thoáng đỗ rồi bay đi". Mùa hè, dưới ánh nắng chang chang và tiếng tu hú gần xa ran ran, thì bắp ngô "đã mập và chắc", mùa thu hoạch ngô đã tới. Qua đó, ta thấy cách miêu tả và cảm nhận của Nguyên Hồng rất tinh tế khi ông viết về bãi ngô, cây ngô nơi đồng quê.