Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng văn võ song toàn, người đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tên của ông luôn mãi được khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam cùng với những trang sử vàng của dân tộc. Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một "thiên cổ hùng văn" bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.
Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A. Hịch tướng sĩ đã đạt thành công đầu tiên của mình bằng cách sử dụng chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của ông được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước.
Bài hịch của ông là sự kết hợp tuyệt vời giữa sức mạnh của từng từ và tình cảm cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù. Tất cả những điều này đã tạo nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch. Trong bài hịch, vị chủ tướng đã nêu cao gương sáng của các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh hay anh dũng chống giặc hy sinh vì nước. Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết. Tuy nhiên, dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn, các tấm gương này lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tường, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Bằng lời văn ngắn gọn, súc tích, Trần Quốc Tuấn đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ nhìn lại bản thân mình và thấy được giá trị của tình yêu nước và tấm gương các anh hùng nghĩa sĩ.
Tình yêu quê hương được Hưng Đạo Vương thể hiện bằng sự căm thù đối với kẻ thù. Ngọn lửa yêu nước mãnh liệt bao trùm, khiến lòng căm phẫn trước sự tàn ác của quân giặc càng cháy bỏng hơn. Hưng Đạo Vương đã lộ ra tội ác của quân thù, đó là sự ngang ngược, huênh hoang và tàn bạo. Quân giặc đầy tham lam, hành động tàn ác như bọn cầm thú, gian mãnh, hung tàn. Họ có những hành động đáng xấu hổ như lén nhìn sứ ngụy đi lại, lăng nhục triều đình bằng cách uốn éo lưỡi và khinh rẻ tổ phụ bằng cách lăng nhục đồng bào. Họ còn đòi ngọc lụa để phục vụ lòng tham khảo cùng, đeo bằng hiệu Vân Nam Vương để tích trữ kho báu vô giá. Tinh thần đó còn được thể hiện qua nỗi lòng của một vị tướng luôn lo lắng cho vận mệnh của dân tộc đang đối mặt với nguy cơ hiểm nghèo, và quê hương đang đứng trước một hiểm họa lớn, khó lòng giữ vững độc lập và toàn vẹn.
Tác giả thương xót và lo lắng, trăn trở cho tình hình đất nước lúc này. Quân giặc phá phách trên quê hương, dân chúng lầm than, chết chóc thảm hại, khiến nỗi lòng kẻ sĩ không yên: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi căm tức biến thành hành động, mạnh mẽ và dứt khoát: “Dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Một nỗi căm phẫn đến tột cùng của một trái tim thấm đẫm tình yêu nước, yêu nhân dân. Một ý chí quyết tâm tột độ, dẫu cho phải có hi sinh tất cả cũng phải giết được lũ giặc bất nhân, phi nghĩa. Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành niềm uất hận ngàn thâu, chứa chan trong lòng khi chưa rửa được nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉ căm thù giặc mà trần Quốc Tuấn còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc. Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân. Một vị tướng tài ba, ngoài lòng yêu nước, họ còn phải biết yêu thương binh sĩ. Và Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, xem binh sĩ như những người anh em khi xông pha trận mạc cũng như khi thái bình: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Thật là cảm động thay cho tình sâu nghĩa nặng của ông đối với binh sĩ. Cũng chính nhờ tình cảm đó đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ.
Tinh thần yêu nước được thể hiện thông qua đoàn kết và khích lệ đồng bào, đặc biệt trong việc chống giặc cứu nước. Những lời chân tình thắm thiết ghi lại những tình cảm yêu thương và lo lắng của vua đối với binh sĩ. Vua không chỉ đưa ra những lời khuyên nhẹ nhàng, mà còn phê phán quyết liệt những hành động sai trái của binh sĩ, như thờ ơ, bàng quan trước vận mệnh của đất nước. Ông nói rằng: "Nếu thấy nước nhục mà không lo, thấy chủ nhục mà không thẹn, thì làm sao tướng triều đình có thể hầu quân giặc mà không tức giận". Những hành động hưởng lạc, ham vui, và quên mất trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, như chơi đùa, đánh bạc, vui chơi, hoặc quá mải mê với gia đình và công việc riêng, đều làm giảm chất lượng và hiệu quả của binh sĩ trong việc bảo vệ đất nước. Những lời giáo huấn của vua có ý nghĩa rất sâu sắc, nó giúp đánh thức những binh lính lạc lối và lầm đường trở lại con đường đúng đắn, đồng thời rèn luyện ý thức về độc lập dân tộc. Vua cũng chỉ ra rằng, trong bối cảnh nguy cơ bị xâm lược từ nước ngoài, việc đoàn kết và cảnh giác là rất quan trọng, và việc học "Binh thư yếu lược" do trần Quốc Tuấn biên soạn cũng là một cách để rèn luyện kỹ năng và chiến thắng quân thù.
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng. Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ. Với bài hịch ngắn gọn, súc tích, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bản hùng ca vang mãi đến muôn đời.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |