Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tác phẩm đất nước

Phân tích tác phẩm đất nước 
4 trả lời
Hỏi chi tiết
103
1
2
Hoàng Hiệp
15/06/2023 22:39:41
+5đ tặng

Ai đó cũng đã từng hỏi lòng có mối tình nào lẳng lặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc? Để đáp lời những câu hỏi ấy thì đã có rất nhiều những vần thơ cất cánh. Chúng ta thấy hình ảnh đất nước đau thương quật cường căm hờn vùng lên đấu tranh huy hoàng trong thơ Nguyễn Đình Thi, ta thấy Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam bay lên bát ngát mùa xuân, với Xuân Diệu là “tổ quốc tôi như một con tàu” thì đến năm 1971 Nguyễn Khoa Điềm cũng đã góp thêm một ý thơ hay về đề tài đất nước. Đó là bài thơ Đất nước.

Tác phẩm Đất nước ra đời cùng với trường ca Theo chân bác (Tố Hữu), Bài ca chim chơ Rao (Thu Bồn)… Song các bản trường ca này triển khai cảm xúc xoay quanh câu chuyện về cuộc đời một nhân vật anh hùng. Riêng với trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điểm lại triển khai cảm xúc theo quá trình vận động ý thức của một tầng lớp tuổi trẻ thành thị Việt Nam được thức tỉnh trước hiện tại đất nước để nhìn rõ kẻ thù và ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình vực dậy con đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi....
Đất Nước có từ ngày đó ...”

Đoạn thơ với giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ đã đưa ta về với cội nguồn của đất nước . Đất nước có từ ngày tháng năm nào không ai rõ ,chỉ biết rằng:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa...”mẹ thường hay kể”
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc“

Khi lí giải về cội nguồn đất nước, tác giả lí giải đất nước gắn liền với mỹ tục thuần phong , với cổ tích truyền thuyết, với tập tục ăn trầu , búi tóc ; với truyền thống cần cù lao động, anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm, được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa “ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Lời thơ như lời kể , hình ảnh giản dị, gần gũi và tác giả vận dụng yếu tố văn hóa dân gian để lí giải cội nguồn đất nước thân thuộc, gần gũi và có ngay trong mỗi một gia đình bình dị, gần gũi nhưng thật thiêng liêng.

Tiếp theo là cách tác giả cảm nhận đất nước về phương diện địa lí , lịch sử và nhắn nhủ ý thức cội nguồn dân tộc. Về phương diện địa lí , tác giả cảm nhận :

"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Tác giả định nghĩa rất cụ thể “ Đất là ....., Nước là..... và tổng hợp Đất nước là ....Đất nước được cảm nhận là những không gian gần gũi, gắn bó như nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Quả đúng, đất nước bắt nguồn từ tình yêu bé nhỏ nhất rồi lớn dần lên đến hùng vĩ , thiêng liêng hợp nhất, thống nhất toàn vẹn.Về phương diện lịch sử thì đất nước là nơi dân mình đoàn tụ.

"Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"X

Đất nước là không gian sinh sống của cộng đồng dân tộc ta qua bao thế hệ từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng cho đến nay và cả mai sau vẫn là không gian tồn tại, phát triển, trải rộng trên một không gian mênh mông. Từ cách cảm nhận đó nhà thơ nhắn nhủ phải có ý thức cội nguồn dân tộc, hay thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn thế hệ đi trước hướng về đất Tổ , nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ".

Bằng cách diễn đạt bình dị, vừa hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi đoạn thơ không chỉ thể hiện cảm nhận về đất nước mà còn thể hiện tình yêu nước tha thiết của tác giả và lời nhắn nhủ của tác giả với tất cả cháu con. Đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với anh , với em, với mọi người:

"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"

Với giọng thơ tâm tình , ngọt ngào như lời của đôi lứa yêu nhau tác giả khẳng định con người là hạt nhân làm nên đất nước, hay mỗi con người là một phần tử của cộng đồng, đất nước bằng sự gần gũi, yêu thương và tự hào.

"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"

Đất nước nằm trong chính không gian sống với tất cả thân thương, trìu mến. Chính vì thế mà:

“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.”

Khi đôi lứa giao duyên, yêu thương cũng là khi đất nước nhỏ được dựng xây để cùng vun lên đất nước to lớn. Khi chúng ta cầm tay mọi người – mọi người có cầm tay nhau,yêu thương giúp đỡ lẫn nhau - có đoàn kết, yêu thương đồng bào thì mới tạo nên sức mạnh cho đất nước “vẹn tròn to lớn để làm nên lịch sử dân tộc và đất nước .

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông chèo lái xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp, ngày càng cường thịnh, văn minh . Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm :

"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời".

Nhà thơ cất lời gọi yêu thương “ em ơi em” để nhắn nhủ đất nước là mồ hôi xương máu của tổ tiên, của dân tộc ngàn đời. Vì vậy mà “phải biết “ gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng hình đất nước – phải biết đoàn kết, chia sẻ và cống hiến, hi sinh cho đất nước . Ngay trong hoàn cảnh chống Mĩ quyết liệt, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm là hồi trống đánh thức tinh thần quyết chiến của mỗi cá nhân để giành và giữ đất nước.

Nhà thơ gieo vào từng vần thơ ca ngợi đất nước:

"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu....
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...."

Đoạn thơ ngợi ca đất nước hùng vĩ, khẳng định những phẩm chất cao đẹp về quê hương đất nước, con người Việt Nam của tác giả. Đất nước hùng vĩ với danh lam thắng cảnh đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn rất nhân văn là núi ấy, hòn ấy góp phần làm đẹp thêm cho đất nước. Dường như, lứa đôi hạnh phúc ấm êm đã dựng xây cho đất nước thêm kì vĩ, lớn lao.

Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp đất nước về mặt lịch sử và truyền thống:

"Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"

Cái “ gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho nước non bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”. Những từ ngữ “ đi qua còn để lại”, “ góp mình dựng” thật bình dị mà đáng tự hào biết bao, tự hào về sự thiêng liêng của đất nước. Đất nước có núi cao, biển rộng, sông dài, có Sông Hồng “ đỏ nặng phù sa”, có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa mà tác giả ví như con rồng.

"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm"

Những con rồng “nằm im” từ bao đời nay mà người dân Nam Bộ mến yêu có “ dòng sông xanh thẳm” với nước ngọt phù sa, tôm cá,...là hình ảnh đất nước tươi đẹp, con người Việt Nam tài hoa và chịu thương chịu khó. Ngắm núi Bút non Nghiên Nguyễn Khoa Điềm không nói đến “ địa linh nhân kiệt” với tinh thần tôn sư trọng đạo của nhân dân ta.Những học trò nghèo góp cho đất nước mình Núi Bút, non Nghiên. Hạ Long trở thành kì quan , thắng cảnh là nhờ có “Con cóc, Ông Đốc, Ông Trang …làm nên. Nhà thơ ngợi ca đức tính cần cù , siêng năng, dũng cảm “làm nên đất nước muôn đời”. Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn đất nước cùng Nhân dân của tác giả về phẩm chất của con người : trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng,.... Chính những vẻ đẹp của nhân dân làm cho non sông gấm vóc thêm giàu đẹp.

Sau tám câu thơ là giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào . Bằng giọng văn chính luận kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....”

Bốn câu thơ là dáng hình đất nước hiện lên vừa mộc mạc, đơn sơ vừa thân thương, gần gũi với đồng lúa, nương ngô.... Đất nước với tất cả đơn sơ ấy là dáng hình mà cha ông hằng mong ước, hằng gây dựng. Dường như con người là hạt nhân to lớn nhất để đất nước thêm muôn hình muôn vẻ, thêm đẹp và thêm tươi. Như vậy, qua hình tượng đất nước tác giả ngợi ca tâm hồn nhân dân, bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam và bày tỏ lòng yêu mến, tự hào về quê hương đất nước.

Tư tưởng đất nước của nhân dân được tác giả nhắc đến qua từng câu chữ:

“Em ơi em.......
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”

Mở đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào “ Em ơi em” hãy nhìn về bốn nghìn năm đất nước, nhìn lại quá khứ của nhân dân, đất nước với 4000 năm văn hóa gắn liền với những con người Việt Nam cần cù trong lao động và anh hùng trong chiến đấu:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

Giọng thơ vừa tâm tình vừa khẳng định truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước , có những con người đã hy sinh thầm lặng mà tác giả không bao giờ quên :

“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ làm ra Đất Nước”

Chính nhân dân là người có công lớn trong sự nghiệp hôm qua, hôm nay và cả mai sau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà , từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Tác giả sử dụng phép lặp, hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi cảm càng khẳng định sức mạnh của nhân dân trong sáng tạo, giữ gìn những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả khẳng định:

“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Bằng giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng tác giả khẳng định nhân dân đóng vai trò chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải chăng tác giả đang nhắc nhở mỗi người dân ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc.

"Dạy anh “ biết yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"

Vận dụng sáng tạo văn học dân gian để gợi nhắc và khẳng định các truyền thống cao đẹp của nhân dân ta: say đắm trong tình yêu, anh hùng trong chiến đấu. Điều đó chính là sức mạnh cho đất nước để chiến thắng và tiến lên. Nhà thơ ý thức được cội nguồn sức mạnh của nhân dân nên hy vọng, tin tưởng:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”

Giọng thơ tâm tình tha thiết , vận dụng sáng tạo các yếu tố văn học dân gian , ý tưởng đẹp, cảm xúc chân thành tác giả đã thể hiện cả niềm tự hào, tình yêu tha thiết với quê hương đất nước.

Như vậy, bằng việc sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo, cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc kết hợp giọng thơ trữ tình – chính trị tha thiết, sâu lắng và giàu chất suy tư Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở lớp lớp thế hệ trẻ hôm nay phấn đấu hơn nữa vì đất nước muôn đời và hãy nhớ:

“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Thái Thảo
15/06/2023 22:42:20
+4đ tặng

Đất nước, hai chữ thiêng liêng nhưng lại ẩn chứa biết bao điều hàm súc bên trong. Có thể nói đề tài đất nước là chủ đề yêu thích của rất nhiều nhà thơ. Mỗi tác phẩm đều mang một sắc thái riêng biệt, thể hiện sự cảm nhận, tình cảm riêng của tác giả. Nhưng đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được những tư tưởng mới mẻ về cội nguồn, sự hình thành của Đất nước. Đặc biệt thông qua 9 câu thơ đầu của tác phẩm.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước mà theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Với cấu trúc tổng-phân-hợp mang đậm phong cách chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, tổ quốc.

Câu thơ mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức, tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, nó giống như một lời khẳng định về sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi nhắc đến:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Truy tìm về cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về sự khởi thuỷ của hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ, người bà. Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng… Từ những câu chuyện đó hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay. Bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” gợi cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng nói trách nhiệm với quê hương, tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được Tố Hữu đưa vào thơ của mình:

Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.

Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng, bất khuất của con người Việt Nam:

Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.

Nguyễn Khoa Điềm đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Có phải chăng hình tượng người mẹ - người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ sự kín đáo, nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét đẹp của người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:

Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh

Vẻ đẹp của con người Việt còn ở phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà thấm đẫm câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người: “Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.”. Con người ở với nhau càng lâu thì tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ câu ca dao:

Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến sự ấm áp, hạnh phúc. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên con là “kèo”, là “cột” ra đời, vừa giản dị lại gần gũi và tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.

Không những vậy, con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã”, “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Câu thơ cuối cùng là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:

Đất Nước có từ ngày đó…

“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.

Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.

1
0
Thảo Nguyên
16/06/2023 07:16:14
+3đ tặng

Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân, nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn lao. Đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cũng ra đời trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Đó là những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước sôi sục, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn luôn gắn liền với vận mệnh của đất nước. Viết trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn góp một tiếng nói nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở vùng tạm chiếm miền Nam. Đoạn trích Đất Nước thuộc chương V của trường ca, đây cũng là phần hay nhất của bản trường ca này, có thể hiện sự nhận thức sâu sắc của một thế hệ thanh niên Việt Nam về đất nước. Chính nhận thức ấy đã trở thành một điểm tựa để mỗi người tự suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước.

Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ chính luận thể hiện cảm nhận “Đất Nước của Nhân dân”. Sở dĩ gọi là chính luận bởi trong bài thơ này nhà thơ muốn bàn luận về đất nước, về nhân dân. Đó là những khái niệm về đất nước vừa quen thuộc vừa mới mẻ nhưng tác giả không dừng lại ở chỗ lí giải đất nước là gì, nhân dân là gì mà ông còn muốn bày tỏ những tình cảm sâu nặng của mình đối với đất nước, đối với nhân dân. Sự kết hợp giữa hai phương diện này một cách nhất quán đã làm cho bài thơ vừa mang chất chữ tình, vừa mang chất chính luận. Toàn bộ đoạn trích được chia thành những khổ và những đoạn nhỏ để trả lời cho mỗi câu hỏi và giữa các câu hỏi ấy được liên kết với nhau khá chặt chẽ. Khởi đầu là những câu hỏi về thời gian, tác giả muốn đưa bạn đọc trở về quá khứ để tìm trong lịch sử cái thời điểm mà đất nước ra đời:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…

Trong một đoạn thơ ngắn mà xuất hiện một loạt các trạng từ chỉ thời gian: “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Gắn liền với những trạng từ đó là những miếng trầu bà vẫn thường ăn hàng ngày, nghĩa là đất nước có từ rất lâu đời, từ thuở xa xưa trong văn hóa dân gian, trong phong tục tập quán, trong tình yêu của mỗi gia đình, trong từng hạt gạo. Sau mỗi câu hỏi xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm câu trả lời cho một câu hỏi quen thuộc hơn. Đất là gì? Đây không phải là câu hỏi mới mẻ và Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên đặt câu hỏi này. Người ta đã từng có những định nghĩa trong lịch sử, trong địa lí, trong dân tộc học. Trong văn học, từ lâu lắm rồi, người ra cũng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Cái mới của Nguyễn Khoa Điềm chính là đi tìm một câu trả lời của riêng mình, của thế hệ mình. Ở đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ liên tiếp đưa ra những nhận định của mình:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo, thật trữ tình và có sức hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bài thơ không chỉ viết cho tuổi trẻ, không chỉ cho những người yêu nhau mà viết cho tất cả mọi người. Định nghĩa Đất Nước được kéo dài nhưng lại kiến giải rất đơn giản, rất có lí và đầy thuyết phục. Đó là những kiến giải trên hai trục không gian và thời gian, “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, giữa cái thời gian và không gian ấy hiện ra một đất nước với dáng vẻ hùng vĩ với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá như ông móng nước biển khơi”.

Đó là một không gian trữ tình hùng vĩ của đất nước. Ở đây tác giả trở về với truyền thuyết và dùng truyền thuyết để cắt nghĩa đất nước là gì.

Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.

Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào t trong bọc trăm trứng, đất nước tạo ra mọi người, tất cả mọi thế hệ, những người đang sống, những người đã khuất. Nhưng ở nơi nào thì mọi người dân ở đất nước này cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước vừa linh thiêng rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi thân thuộc. Đất nước có trong anh, trong em và trong tất cả mọi người, trong thế hệ đã khuất, trong thế hệ hôm nay và trong thế hệ mai sau. Bao giờ cũng có một đất nước vẹn tròn tình nghĩa. Vẫn là giọng chính luận khúc chiết mà lời thơ đằm thắm chứa chan bao tìm cảm:

Em ơi đất nước là máu xương của mình
….
Làm nên đất nước muôn đời…

Đọc những câu thơ này của Nguyễn Khoa Điềm, ta chợt nhớ đến một câu thơ của Chế Lan Viên, một người cũng rất hay đưa những khái quát trong thơ khi nghĩ về đất nước. Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa Điềm thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng dường như có một sự gặp gỡ nào đó khi nói về tình yêu lớn lao của mỗi người về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm viết “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế mà phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở” thì Chế Lan Viên viết:

Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Chính luận cần sự minh xác bởi những lí lẽ thuyết phục sẽ làm người ta tin, chất chữ tình để làm con người ra xúc động yêu thương. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất chữ tình từ những hình ảnh chi tiết cụ thể mà nâng dần lên tầm khái quát.

Ở phần thứ hai của bài thơ xuất hiện một loạt những hình ảnh, những chi tiết cụ thể khi nói về đất nước, một phát hiện độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi nhà thơ chỉ ra những yếu tố để góp thành đất nước. Ở đây có một loạt tên hùng vĩ, một đất nước bao la, một đất nước với truyền thống ngàn năm trong lịch sử không phải là một cái gì đó lớn lao, to tát mà là những thứ gần gũi, quen thuộc đối với mọi người. Công lao để góp nên đất nước không thuộc về riêng ai, không chỉ có anh hùng vĩ nhân mới có công làm nên đất nước mà cả những người con bình thường, những con người vô danh sống âm thầm lặng lẽ nhưng chính họ đã góp cho đất nước cuộc sống của mình. Đó là những người yêu nhau góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên” và cả những con vật bình thường như con gà, con cóc nhưng lại có đủ sức để góp cho đất nước một Hạ Long đẹp huyền thoại. Những cái tên gọi bình thường của những người dân Việt Nam như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” làm nên những địa danh nổi tiếng của đất nước.

Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động:

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

Tác giả không dừng lại ở đây coi như một sự kết thúc cho những cảm nhận và suy ngẫm về đất nước, cảm xúc và những suy ngẫm trải dài bởi dường như động tới bất kì cái gì cũng là nói về đất nước, từ những người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái cùng con. Trong số họ đã có những người trở thành anh hùng. Tuy nhiên, đất nước không chỉ được làm nên bởi bốn nghìn lớp người ‘họ đã sống và chết – giản dị và bình tâm – không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Tác giả muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người vô danh, với những việc làm thầm lặng, giản dị và quen thuộc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Chính họ đã truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng, đã cho ta ngọn lửa, cho con ta tiếng nói… Sau những suy ngẫm, nhà thơ đi đến kết luận: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, đất nước của tất cả mọi người, trong đó có cả những anh hùng và cả những người vô danh. Họ không để lại một dòng tên trong lịch sử, không một tượng đài, một tấm bia lưu danh nhưng lại cho đất nước một cuộc đời bình dị và chính những sự bình dị ấy đã làm nên một đất nước lớn lao mạnh mẽ, làm nên một đất nước trường tồn với thời gian và hùng vĩ trong một không gian bao la, rộng lớn.

Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy. Bằng cảm xúc chân thành và suy nghĩ sâu sắc, nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc những cảm nghĩ rất riêng của mình về đất nước, góp phần làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng. Đất không phải là tiếng nói của riêng nhà thơ mà là cảm nhận của một thế hệ thanh niên trong thời kì chống Mĩ về đất nước. Đây cũng là một sự thể hiện, một nét độc đáo trong giọng điệu của Nguyễn Khoa Điềm, đó là sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận.

2
0
Tâm Như
17/06/2023 08:45:53
+2đ tặng

Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.

Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.

Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.

Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.

Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.

Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.

Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:

Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.

Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:

Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:

Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.

Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo